Nói đến sự nghiệp văn chương của Nguyễn Công Trứ, người ta không thể không nhắc đến thơ hát nói. Nói đến thơ hát nói Nguyễn Công Trứ, người ta lại không thể không nhắc đến Bài ca ngất ngưởngĐây là tác phẩm tiêu biểu cho cá tính và phong cách văn chương (thơ ca) Nguyễn Công Trứ. Bởi vậy, tác phẩm được tuyển, dẫn trong hầu hết các công trình biên soạn, nghiên cứu về ông. Nó cũng được đưa vào giảng dạy chương trình Ngữ văn ở phổ thông trung học (Ngữ văn 11). Tuy nhiên, từ văn bản cho đến hướng tiếp cận bài thơ vẫn chưa phải đã ổn đáng. Khỏi phải dẫn lại rất nhiều ý kiến khác nhau về các vấn đề đã nêu, chúng tôi xin trình bày ý kiến của mình để độc giả tự so sánh và lựa chọn cho mình cách hiểu hợp lí nhất.

1.Vấn đề văn bản và chú giải Bài ca ngất ngưởng

Theo Nguyễn Thị Lâm[1]Bài ca ngất ngưởng hiện có 4 dị bản chính: bản Gia phả tập biên (GPTB)[2]; “bản Lê Thước” (LT)[3]; bản Đỗ Trọng Huề, Đỗ Bằng Đoàn (ĐTH)[4]; bản Thái Kim Đỉnh (TKĐ)[5]. Trong đó, theo Đoàn Lê Giang, hai bản LT và bản ĐTH là quan trọng hơn (không thấy ông nói đến bản TKĐ). Đoàn Lê Giang cũng đã tiến hành biện giải văn bản và đề xuất một “thiện bản” cho Bài ca ngất ngưởng[6]. Tuy nhiên, đó là một giải pháp. Ở đây, chúng tôi muốn trình bày một giải pháp khác. Căn cứ vào 4 dị bản này chúng ta sẽ lần lượt biện giải và xác lập văn bản Bài ca ngất ngưởng.

1.1. Tiêu đề tác phẩm

Bản GPTB và bản ĐTH chỉ ghi tiêu đề là Ngất ngưởng, bản LT và TKĐ ghi như tiêu đề hiện nay sử dụng là Bài ca ngất ngưởng. Vậy tiêu đề nào đúng và gần nguyên tác hơn? Xét tiêu đề các bài thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ hiện còn chúng tôi nhận thấy, không có bài nào có tên chỉ thể loại của tác phẩm (như bài ca, bài hát, bài thơ,…) mà chỉ đơn giản là nêu nội dung của tác phẩm như: Chí nam nhi, Luận kẻ sĩ, Kiếp nhân sinh, Con tạo ghét ghen,… Những cái tên như thế tuy không đúng với quy luật đặt tên tác phẩm của thời trung đại nhưng phản ánh quan niệm văn chương của thời hậu kì văn học trung đại và của thể loại hát nói: mọi quy chuẩn đều bị phá vỡ, ngay từ cách đặt tên. Như vậy, hoàn toàn có thể tin được rằng cái tên ghi trong bản Nôm GPTB là có lí nhất. Nguyễn Thị Lâm cũng tán thành với cách lựa chọn này. Cái tên Bài ca ngất ngưởng là do người đời sau đặt (có lẽ bắt đầu từ Lê Thước) mà có lẽ khi dùng cái tên này phải được đánh dấu là “bài ca Ngất ngưởng”.

1.2. Nội dung tác phẩm

1) Câu 1 + 2

Hầu hết các bản ghi “Vũ trụ nội mạc phi phận sự/…”. Riêng bản TKĐ ghi là “Vũ trụ giai nho chi phận sự/…”. Chúng ta không rõ Thái Kim Đỉnh dùng theo nguồn nào. Chỉ riêng tính thiểu số của nó đã không thuyết phục. Ý nghĩa của câu cũng quá cụ thể và hơi tối nghĩa: “Vũ trụ đều là phận sự của nhà Nho”. Câu “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” có tính khái quát, tầm vóc hơn. Hơn nữa, về mặt âm luật, cấu trúc câu này bất ổn! Hai câu này được viết bằng cặp câu thất thường thấy trong thể song thất lục bát, trong đó có hai yếu tố bắt buộc: một là về nhịp, nhịp của 2 câu phải là 3/4; hai là về khởi cú và đối, chữ thứ 3 của câu 1 phải là vận trắc, chữ thứ ba của câu 2 phải là thanh bằng. Câu “Vũ trụ giai nho chi phận sự/…” rõ ràng không đáp ứng được hai yêu cầu trên. Bên cạnh đó, cách nói hai lần phủ định “mạc phi” (không gì là không) hay hơn hẳn cách nói khẳng định thuần túy “giai” (đều). Nó là tiếng nói khẳng định một cách mạnh mẽ, dứt khoát, hào hứng. Cách nói trốn chủ ngữ (chủ thể) cũng là cách nói thường thấy của thơ ca trung đại, vừa hàm súc vừa có tính khái quát cao.

Ở câu thứ hai, có vấn đề phiên âm: “vào lồng” hay “vào nhòng”? Các văn bản đều viết/ phiên là “vào lồng”. Nhưng Trần Ngọc Vương lại đặt vấn đề nghi ngờ “lồng” hay “nhòng”?[7] Không rõ ông căn cứ vào tư liệu nào? Phải chăng, vì trong Bích Câu kì ngộ (truyện thơ) có câu: “Vào nhòng Lí Đỗ, nức danh Tô Tào (câu 62)? “Vào nhòng” có nghĩa là “vào hạng”, “vào loại”. Nhưng, l/nh là hiện tượng ngữ âm ở ngoài Bắc chứ không hề có ở miền Trung, vậy nên sự hoài nghi nhòng> lồng có lẽ là chưa có căn cứ vững chắc. “Vào lồng” ở đây cũng có nghĩa là “vào guồng”, vào guồng máy quan chức khi Nguyễn Công Trứ xuất chính. Tuy nhiên, nếu là “vào nhòng” cũng có cái hay của nó, nhất là đặt trong văn cảnh (xem phần sau).

2) Câu 3 + 4:

Các bản đều thống nhất với nhau. Ở đây cần chú thích thêm về “Tổng đốc Đông”: chỉ việc Nguyễn Công Trứ  giữ chức tổng đốc Hải Yên: tổng đốc kiêm coi hai tỉnh Hải Dương và Quảng Yên (tức Quảng Ninh ngày nay). Chế độ coi kiêm này khá thịnh hành thời Nguyễn, chẳng hạn như: Tổng đốc Sơn – Hưng – Tuyên, Tổng Đốc Hà – Ninh – Thái,… Đông chính là chỉ Hải Dương, vì tên thường gọi của tỉnh Hải Dương thời Nguyễn là tỉnh Đông. Hơn nữa, trước đó, trấn Hải Dương còn bao gồm cả Hải Dương, Hải Phòng và Quảng Ninh ngày nay. Từ thời Trần lộ Hải Dương còn gọi là lộ Hải Đông, tên này vẫn thường được dùng sau đó. Chẳng hạn, Ngô Thì Nhậm có tác phẩm Hải Đông chí lược viết về tiểu sử các danh nhân, chính trị, quân sự của tỉnh Hải Dương. Như vậy, “tổng đốc Đông” là một chức vụ khá quan trọng, quản lĩnh một vùng rộng lớn, trọng yếu của đất nước.

3) Câu 5 + 6

Câu 5 đa số các bản ghi là “Lúc bình Tây, cờ đại tướng/…”, riêng GPTB lại chép “Lúc bình Tây, cầm cờ đại tướng”. Câu thơ 7 chữ đầy đủ, rõ nghĩa. Chữ “cầm” thể hiện tư thế chủ động, hăng hái của nhà thơ; nó thống nhất với cách viết ở câu 6: “Có khi về, Phủ doãn Thừa Thiên”. Câu này nói rõ cái ý: Nguyễn Công Trứ khi tại chức chỉ làm Thự Phủ doãn phủ Thừa Thiên, tức mới là Quyền Phủ doãn. Năm 1848, khi ông dâng sớ xin về nghỉ hưu, vua Tự Đức mới cho ông được thực thụ chức Phủ doãn, như một sự gia ân để khi về hưu trí cho thêm vang vẻ. Câu thơ của Nguyễn Công Trứ đã nói rõ điều đó: “có khi về” (về đây là về hưu).

4) Câu 7 + 8:

Câu 7 đa số các bản chép “Đô môn giải tổ chi niên”, riêng bản TKĐ chép “giải tỏa”. “Giải tổ” là một thành ngữ, chỉ người bỏ quan về nghỉ. Vi Ứng Vật có câu thơ: “Giải tổ ngạo viên lâm” (Bỏ quan về, sống ngạo ở chốn vườn, rừng). Câu 8 đa số các bản chép “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”, riêng bản GPTB chép “Lạc ngựa…”. Nếu muốn dùng “lạc” thì thường người ta dùng “lục lạc”. Vì vậy, ở đây “đạc ngựa” thích hợp hơn. Theo Đoàn Lê Giang, đây là việc có thực chứ không phải là tương truyền. Việc này cũng diễn ra ngay tại kinh đô Huế trong ngày ông treo ấn từ quan, theo lệ trí sĩ, để về quê. Hai dòng: “Đô môn giải tổ chi niên/ Đạc ngựa, bò vàng đeo ngất ngưởng” chính là để diễn tả ý đó. Dòng trên chính là trạng ngữ chỉ thời gian cho dòng dưới với tư cách là nòng cốt.

5) Câu 9 + 10

Câu 9 đa số các bản chép “Kìa núi nọ phau phau mây trắng” riêng bản TKĐ chép “Kìa lĩnh thượng lơ thơ mây trắng”. Chữ “lĩnh thượng” bị lạc phong cách trong câu thơ này (phong cách thuần Nôm). Chữ “lơ thơ” lại làm cho ý câu thơ trở nên tầm thường. Chữ “núi nọ” các sách đều giải thích là núi Đại Nài gần thị xã Hà Tĩnh, quê hương của Nguyễn Công Trứ; “mây trắng” là mây ở núi này. Tuy nhiên, cả dòng thơ còn gợi nhớ đến một điển tích rất hay xuất hiện trong văn học trung đại. Theo sách Đường thư, Địch Nhân Kiệt đời Đường đi làm Tham quận ở Tinh Châu mà mẹ thì ở Hà Dương. Một hôm, ông lên núi Thái Hàng, thấy một đám mây trắng bay xa xa, bảo với những người cùng đi rằng: “Nhà cha mẹ ta ở dưới đám mây trắng ấy”. Điển tích này chỉ nỗi lòng nhớ cha mẹ, cũng chỉ nỗi nhớ quê hương. Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du có dùng điển tích này: Bốn phuơng mây trắng một màu/ Trông với cố quốc biết đâu là nhà. Bởi nhớ nhà nên cũng muốn về. Trương Hàn ngày xưa nhớ rau thuần cá vược nơi quê nhà mà từ quan về. Ngày nay, Nguyễn Công Trứ phải chăng cũng có tâm sự ấy?

Câu 10: Bản LT chép “Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi”. GPTB chép “…nên dáng từ bi”, TKĐ chép “mà dạng từ bi”. “Dạng” hay “dáng” có lẽ cũng chỉ do cách phiên Nôm khác nhau. Hơn nữa, nó cũng không ảnh hưởng đến nghĩa của cả câu.

6) Câu 11 + 12:

Các bản đều khá thống nhất: “Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì/ Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.

7) Câu 13 + 14

Câu 13 có một vấn đề đặt ra là: “Người tái thượng” hay “người thái thượng”? Thái thượng và tái thượng đều có nghĩa hay.

“Thái thượng” được Từ hải giải thích gồm 4 nghĩa: 1) “cũng gọi là ‘tối thượng”, sách Kinh Lễ (phần Khúc Lễ) chép “Người đời thái thượng quý cái đức, tiếp đó là thi hành việc báo đáp” (Thái thượng quý đức, kì thứ vụ thi báo), sớ chú: “thái thượng dùng để chỉ đời Tam hoàng, ngũ đế”, cũng có sách viết là “đại thượng”. Tả truyện (Tương công nhị thập tứ niên) chép: “đời thái cổ có việc lập đức” (đại thượng hữu lập đức), chú rằng: “Thời Hoàng đế, Nghiêu Thuấn, chữ đại có âm là thái”. Sớ rằng: “đại thượng, nói cái cao nhất của con người, tức là người có đức của thánh nhân”; 2) Chỉ người ở ngôi vị chí tôn, Khuông Hành truyện trong sách Hán thư chép “nói người bề trên, đó là cha mẹ của dân” (ngôn thái thượng giả, dân chi phụ mẫu); 3) chỉ “thái cổ”, Ưng Trinh truyện trong Tấn thư chép: “thời thái cổ xa xăm, dân rất là giản dị” (du du thái thượng, nhân chi quyết sơ); 4) Niên hiệu (năm 405) của Mộ Dung Siêu nước Nam Yên thời Tấn[8].

Về “tái thượng”thiên Nhân gian sách Hoài Nam tử  có chép: “Trong số những người ở trên vùng biên ải, có một người khá tài giỏi, có con ngựa vô cớ mất vì đi sang đất Hung Nô, người ta đều đến chia buồn, bố anh ta nói: Biết đâu đó chẳng phải là phúc? Mấy tháng sau, con ngựa mất quay về dắt theo một con ngựa tốt gốc Hung Nô, người ta đều đến chúc mừng, bố anh ta nói: Biết đâu đó chẳng phải là họa. Nhà có nhiều ngựa, người con trai thích cưỡi, bị ngã gãy cả chân, người ta lại đến chia buồn, bố anh ta nói: Biết đâu đó chẳng phải là phúc? Một năm sau, người Hung Nô tràn qua biên giới, những kẻ trai tráng đều phải tham chiến, người ở trên biên ải, mười phần chết mất chín, chỉ con trai ông già vì chân gãy mà hai bố con bảo toàn được tính mạng, vì thế trong phúc có họa, trong họa có phúc, biến hóa không cùng, sâu không thể lường được vậy” (Tái thượng chi nhân, hữu thiện thuật giả, mã vô cố vong nhi nhập Hồ, nhân giai điếu chi, kì phụ viết: Thử hà cứ bất năng vi phúc hồ?’ Cư số nguyệt, kì mã tương Hồ tuấn mã nhi quy, nhân giai hạ chi, kì phụ viết: ‘Thử hà cứ bất năng vi họa hồ?’ Gia phú lương mã, kì tử hiếu kị, trụy nhi chiết kì bí, nhân giai điếu chi, kì phụ viết: ‘Thử hà cứ bất năng vi phúc hồ?’. Cư nhất niên, Hồ nhân đại nhập tái, đinh tráng giả khống đạn nhi chiến, tái thượng chi nhân, tử giả thập cửu, thử độc dĩ bí chi cố, phụ tử tương bảo, cố phúc chi vi họa, họa chi vi phúc, hóa bất khả cực, thâm bất khả trắc dã)[9].

Rõ ràng, câu thơ của Nguyễn Công Trứ phải là “Được mất dương dương người tái thượng”. GPTB chép  rõ như vậy. “Được”, “mất” trước hết nhắc chuyện mất ngựa, được ngựa, rộng ra là chuyện được mất; “người tái thượng” là dịch cụm “tái thượng chi nhân” trong sách Hoài Nam tử.

Câu 14: Đa số các bản chép: “Khen chê phơi phới ngọn Đông phong”, riêng GPTB chép “… trận thu phong”. “Trận thu phong” không hợp lí, thậm chí tối nghĩa (gió thu lạnh lẽo làm sao phơi phới!).

“Đông phong” là gì? Các sách đều giải thích “Đông phong” là gió xuân, chỉ ngọn gió ấm áp. Ở đây xin được cung cấp thêm một số kiến giải để hiểu rõ hơn câu thơ của Nguyễn Công Trứ:

+ Nếu hiểu “Đông phong” là gió xuân, thì cũng cần biết thêm quan niệm của nguời xưa về “gió xuân”. Sách Lễ kí, Nguyệt lệnh chép: “Tháng Giêng, gió xuân làm tan băng lạnh” (Mạnh xuân chi nguyệt, Đông phong giải đống)[10]. Như vậy, gió xuân chỉ sự ấm áp.

+ Liên quan đến nghĩa này, trong văn học cổ còn có điển “Gió xuân thổi tai ngựa” (Đông phong xuy mã nhĩ), dùng để ví với việc không quan tâm đến sự việc, thản nhiên không nghe. Bài thơ Đáp Vương Khứ Nhất của Lí Bạch có câu: “Thế gian nghe việc này đều lắc đầu/ Cũng giống như gió xuân thổi qua tai ngựa” (Thế gian văn thử giai điệu đầu/ Hữu như đông phong xuy mã nhĩ)[11]. Nguyễn Huy Quýnh (1734 – 1785) có câu: “Trước thôn lắm chuyện làm ngựa gió Đông/ Bên bãi tùy duyên làm trâu sông Dĩnh” (Thôn tiền đa sự Đông phong mã/ Chử bạn tùy duyên dĩnh thủy ngưu) [Họa Giang trung mục phố thi][12].

+ “Đông phong” còn là tên một loại hoa (hoa cúc). Bài phú Ngô đô của Tả Tư có câu: “Đông phong, phù lưu” (cây cúc và cây trầu), trong Bản thảo cương mục của Lí Thời Trân cũng có chép tên loài cây này. “Đông phong” tên khoa học là Aster scaber, thuộc loài cúc, sống nhiều năm thì sinh rễ, cao khoảng 4, 5 tấc, lá ở dưới to, lá ở trên nhỏ, hình quả trứng mà nhọn, mùa thu thì hoa nỏ, màu trắng. Hoa này sống ở đầm phẳng vùng Lĩnh Nam, lá dày mà mềm, có lông tơ, luộc lên ăn khá ngon. Cây này mọc vào đầu xuân, nên được mệnh danh là “đông phong”[13].

Nếu xét ý cả câu của Nguyễn Công Trứ thì cả hai kiến giải sau không phải không có lí, nhất là điển “Đông phong xuy mã nhĩ”. Chúng tôi nghiêng về hướng cho rằng “Đông phong” ở đây chính là từ từ điển “Đông phong xuy mã nhĩ”. Nếu hiểu như vậy, thì hai chữ “phơi phới” có lẽ cần được phiên âm lại là “phây phẩy”, “phảy phảy” với nghĩa chính là “phe phảy” (bên tai ngựa) chẳng đáng quan tâm.

8) Câu 15 + 16

Câu 15: GPTB chép là “Khi thi khi rượu lúc trà thung”; TKĐ chép “Khi cầm kì, khi thi tửu, khi cắc, khi tùng”. Câu trong bản GPTB khá hiền lành, thanh khiết, không nổi rõ cái ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ. Câu trong bản TKĐ thì trùng lặp, dài dòng. Tóm lại, câu trong bản LT, ĐTH là hay nhất.

Câu 16: Đa số các bản chép “Không Phật, không Tiên không vướng tục”, hoặc “Chẳng Phật, chẳng Tiên” (bản TKĐ), riêng GPTB chép “Không Bụt,…”. “Không” nghe hợp âm luật và chắc chắn hơn “chẳng”. Theo hệ thống các từ dùng ở đây đều là Hán Việt (tiên, tục), thì chữ “Phật” thích hợp hơn (Khác với chữ “Bụt” ở câu 12).

9) Câu 17 + 18

Câu 17:  các bản LT, TKĐ chép “Chẳng Trái Nhạc cũng vào phường Hàn Phú”. Riêng GPTB, ĐTH chép “Chẳng Hàn, Nhạc cũng vào phường Mai Phúc”. Theo chúng tôi, GPTB, ĐTH đã chép đúng. Mai Phúc đúng hơn vì như thế mới hiệp vần: tục/ phúc. Cả bài này dùng vần “liên châu” (vần chân, vần liền chứ không cách câu): lồng/ đông; ngưởng/ tướng; thiên/ niên; bi/ dì; ngưởng/ thượng; phong/ tùng; tục/ phúc; chung/ ông. Không lẽ nào đến câu này lại không vần. Hơn nữa, ở đây ông muốn nói là không phải bậc danh thần nhập thế (Hàn, Nhạc) thì cũng là danh nho xuất thế (Mai Phúc), như thế mới có ý nhấn mạnh, tăng tiến, và cũng hợp với hoàn cảnh về trí sĩ lúc bấy giờ của Nguyễn Công Trứ. Sự xuất nhập chữ “vào” không đáng kể. Tuy nhiên, theo chúng tôi không cần thiết phải có chữ này.

10) Câu 19

Các bản đều chép “Trong triều ai ngất ngưởng như ông” (hoặc “bằng ông”), riêng bản ĐTH chép: “Đời ai ngất ngưởng như ông”. Theo chúng tôi, câu “Đời ai ngất ngưởng như ông” hay hơn và đúng hơn vì hai lẽ: một là, đáp ứng đúng cấu trúc thường thấy của bài hát nói: câu cuối 6 chữ; hai là, “đời ai” rộng hơn “trong triều”. Vả lại, lúc này Nguyễn Công Trứ đã “giải tổ”, cưỡi bò vàng mà về quê hương, nơi “phau phau mây trắng”! Ông còn lưu luyến gì triều đình mà còn phải nói “trong triều”. Câu cuối “Đời ai…” mới ứng hợp với câu đầu tiên: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự”. Nguyễn Công Trứ nói đến cả cuộc đời ngất ngưởng của ông chứ đâu chỉ nói chuyện “trong triều” và ở đây, ông đâu chỉ ngông, chỉ ngạo với “trong triều” mà rộng hơn là với đời. Đó mới là bản lĩnh Nguyễn Công Trứ. Chữ “đời ai” mới tôn Nguyễn Công Trứ lên thành một bản ngã cao, một con người cá nhân triệt để; ông sánh mình vời cuộc đời rộng lớn, muôn thưở chứ đâu chỉ “trong triều” đầy chật hẹp, cụ thể. Ông nói câu chuyện về quan hệ giữa cá nhân (“ông”) với “vũ trụ”, với “đời” (thế gian) đấy chứ.

2. Hướng tiếp cận Bài ca ngất ngưởng

Sau khi đã tiến hành biện luận, hiệu khảo, chúng ta tạm có được một văn bản bài Ngất ngưởng để phân tích như sau:

Vũ trụ nội mạc phi phận sự,

Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.

Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.

Lúc bình Tây, cầm cờ Đại tướng,

Có khi về, Phủ doãn Thừa Thiên

Đô môn giải tổ chi niên,

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.

Kìa núi nọ phau phau mây trắng,

Tay kiếm cung mà nên dáng từ bi.

Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.

Được mất dương dương người tái thượng,

Khen chê phẩy phẩy ngọn Đông phong.

Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,

Không Phật, không Tiên, không vướng tục.

Chẳng Hàn, Nhạc cũng phường Mai Phúc,

Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.

Đời, ai ngất ngưởng như ông.

Bài ca Ngất ngưởng là nói về cuộc đời từ khi làm quan đến khi về trí sĩ. Theo chú thích của GPTB, Nguyễn Công Trứ làm bài này khi ông đã về hưu, đi chơi chùa Cảm Sơn (ở phường Đài Nài, Thành phố Hà Tĩnh ngày nay). Có thể xem đây là bản tổng kết cuộc đời của Nguyễn Công Trứ (chủ yếu là nửa phần đời sau khi đỗ Giải nguyên, ra làm quan của ông). Có thể nói, cả bài thơ đều xoay quanh chủ đề “ngất ngưởng”. Cấu trúc của bài thơ có thể chia làm 4 phần và cả bốn đều xoay quanh từ “ngất ngưởng”, xuất hiện 4 lần trong 4 phần và đồng quy về chữ “ngất ngưởng” ở cuối bài:

Phần I: Cuộc đời quan trường “ngất ngưởng”.

Phần II: Hành động từ quan về trí sĩ “ngất ngưởng”.

Phần III: Cuộc sống trí sĩ “ngất ngưởng”.

Phần IV: Tổng kết lại toàn bộ cuộc đời “ngất ngưởng”.

Quan niệm về ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ có sự thay đổi theo thời gian và cũng có nhiều sắc thái diễn biến. Chúng ta hãy theo dõi từng giai đoạn “ngất ngưởng” của ông.

2.1. Cuộc đời quan trường “ngất ngưởng”

Đọc đoạn thơ:

Vũ trụ nội mạc phi phận sự,

Ông Hi Văn tài bộ đã vào nhòng.

Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,

Gốm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.

Lúc bình Tây, cờ Đại tướng,

Có khi về, Phủ doãn Thừa Thiên.

Trước hết cần hiểu từ “ngất ngưởng” ở đây có nghĩa gì? Theo chúng tôi, có thể hiểu “ngất ngưởng” là ở vị trí cao, nếu không muốn nói là cao nhất (tất nhiên là trong những phạm vi, giới hạn nhất định). Người ta hay nói cao “ngất ngưởng” là vì vậy. Nguyễn Công Trứ cũng đã nói rõ cái giới hạn đó. Mở đầu, ông nói “trong trời đất không có gì không phải là phận sự (của mình, của người nam nhi đại trượng phu,…)” song ông cũng tự giới hạn “vào lồng” (vì sự nhập thế, thi hành phận sự). Vì thế, “ngất ngưởng”, cao ngất ở đây cũng trong giới hạn. Hãy để ý, Nguyễn Công Trứ liệt kê các vị trí, chức quan ông đã trải qua. Hóa ra, chúng đều là những vị trí cao nhất trong phạm vi của nó: Thủ khoa (đứng đầu khoa thi Hương, tức Giải nguyên), Tham tán (đứng đầu đội quan văn tham chiến: Tham tán quân vụ, Tham tán đại thần), Tổng đốc (Đứng đầu một tỉnh hoặc vài ba tỉnh), Đại tướng (cầm đầu đội quân bình Trấn Tây), Phủ doãn (Đứng đầu ở kinh đô). Vậy là, ở đây, ông muốn nói đến tài khí cao vút của mình. Ngất ngưởng ở đây là theo ý đó, chứ không, như ai đó vẫn hiểu ngất ngưởng là ông làm một ông quan ngất ngưởng, “lên voi xuống chó”, ngông nghênh, điệu bộ. Tiểu sử cho biết, Nguyễn Công Trứ là một viên quan cần mẫn, thẳng thắn, tận tụy vì công việc và lập được nhiều công tích. Vì vậy, không thể coi ông làm quan một cách tài tử, ngông nghênh được! Cũng không nên hiểu “vào lồng” là sự bó buộc đối với tài năng của ông. Trái lại, “vào lồng” là chỗ để Nguyễn Công Trứ thể hiện khả năng của mình. Nên chăng cần hiểu là ông nói đến cái tài “kinh bang tế thế” (“vào lồng” “phận sự”) cao ngất của mình. Đó chính là biểu hiện của “ông Hi Văn tài bộ” (chứ không phải là đối lập với nó[14]) và là một nét quan niệm về “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ (“Tài thao lược đã nên tay ngất ngưởng”).

2.2. Hành động từ quan về trí sĩ ngất ngưởng

Đô môn giải tổ chi niên,

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.

“Ngất ngưởng” ở đây có hai nghĩa. Một là, tả cái thế của cái đạc ngựa, thế “ngất ngưởng”, cao, rung rinh. Sở dĩ nó “ngất ngưởng” bởi đáng nhẽ đạc ngựa để đeo lên ngựa, đằng này lại đeo lên con bò, cho nên tạo ra cái thế chênh vênh, có vẻ không chắc chắn như thế. Cái thế đó tạo nên một hình ảnh khá hài hước, khá nghịch ngợm của ông quan Nguyễn Công Trứ (nhưng với ý nghĩa sâu xa là chứng minh sự thanh bạch và thái độ bình thản khi về hưu). Thứ hai, “ngất ngưởng” cũng để chỉ cái hành động khác người của ông, chỉ tính cách ngông của ông, dám treo đạc ngựa lên con bò, cưỡi nó trong ngày treo ấn từ quan về nghỉ lão. Phần này bắt đầu đi vào cái “ngất ngưởng” cá tính rất độc đáo của ông.

Ở đây, ta cũng nên chú ý đến hai dòng thơ chữ Hán trong bài: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự”  “Đô môn giải tổ chi niên”. Thông thường hai dòng chữ Hán thường được đặt ở giữa bài hát nói, hoặc đặt ở đầu bài. Theo Nguyễn Đức Mậu, đó là cách để cân bằng, để tạo ra sự hài hòa hai yếu tố: bác học, điển nhã và đời thường, lệch chuẩn. Cách đặt hai dòng thơ chữ Hán của Nguyễn Công Trứ cũng tạo ra sự lệch chuẩn so với thông thường, và cũng là một biểu hiện của sự “ngất ngưởng” chênh vênh mà ngạo nghễ về mặt hình thứ nghệ thuật.

2.3. Cuộc sống trí sĩ “ngất ngưởng”

Kìa núi nọ phau phau mây trắng,

Tay kiếm cung mà nên dáng từ bi.

Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.

Được mất dương dương người tái thượng,

Khen chê phơi phới ngọn đông phong.

Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,

Không Phật, không Tiên, không vướng tục.

Đây là đoạn thơ thể hiện rõ quan niệm “ngất ngưởng” với ý nghĩa là ngông, là tài tử, khác thường của Nguyễn Công Trứ. Nguyễn Công Trứ thể hiện sự ngất ngưởng của mình ở cái nghĩa: ông là người kiêm gồm những mâu thuẫn, những mặt đối lập mà ở đời mấy ai (rất ít người) có thể làm được được: văn (Thủ khoa, Tổng đốc, Phủ doãn) >< võ (Tham tán, Đại tướng). Bài Luận kẻ sĩ của ông nói rõ điều này.

Đó còn là sự kiêm gồm cả: tay kiếm cung (dữ dội) >< dáng từ bi (hiền lành); gót tiên (thoát tục, già lão) >< một đôi dì (đầy trần tục, trẻ trung); Bụt (Phật với triết lí khổ hạnh, nghiêm trang) >< nực cười (con người lạc quan, hài hước, bao dung); được >< mất; khen >< chê; ca, tửu, cắc tùng (hành lạc, phóng lãng) >< Phật Tiên (thoát tục, tiết dục); ca, tửu, cắc tùng (hành lạc, tao nhã) >< tục (đời thường); Phật Tiên (thoát tục) >< tục (đời thường); Hàn, Nhạc (quan võ, nhập thế) >< Mai Phúc (quan văn, ẩn sĩ xuất thế); vua >< tôi; sơ >< chung. Như vậy, ngất ngưởng đối với Nguyễn Công Trứ không phải là lệch chuẩn, là phá bỏ mà chính là sự đa tài, đa nghệ và bản lĩnh cao cả của mình; là sự xuất chúng, quảng bác của bản thân. Điều đó lí giải những mâu thuẫn trong cuộc đời Nguyễn Công Trứ mà người ta đã từng đặt ra đối với ông. Không ôm gồm “mâu thuẫn” không phải Nguyễn Công Trứ!

2.4. Tổng kết lại toàn bộ cuộc đời “ngất ngưởng”

Chẳng Hàn, Nhạc cũng phường Mai Phúc,

Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.

Đời ai ngất ngưởng như ông.

Để tổng kết cuộc đời mình, một mặt, Nguyễn Công Trứ lấy những tấm gương trong lịch sử; mặt khác, khẳng định trực tiếp. Cái cách nói “chẳng … cũng…” cho thấy Nguyễn Công Trứ muốn khẳng định cả hai phương diện sự nghiệp (văn, võ), tức là vẫn cái mạch khẳng định sự “kiêm toàn” của mình ở các mặt tưởng chừng mâu thuẫn. Sự kiêm toàn đó còn được khẳng định bằng  sự trọn vẹn của các cặp khái niệm: vua – tôi; “sơ” (ban đầu) – “chung” (cuối cùng). Đó là hiện tượng cho thấy ông đã thực sự “đắc đạo” (theo cách nói của Thiền tông là không câu chấp vào những cặp đối lập, cũng như không câu chấp cả việc có câu chấp hay không, như Ỷ Lan nguyên phi từng nói: “Sắc không đều không câu chấp/ Mới lĩnh hội được chân tông” (Sắc không câu bất quản/ Phương đắc khế chân tông). Hay theo cách nói của Lão Trang là “tề vật luận”, vô chấp). Chính vì “đắc đạo” như vậy cho nên ông hoàn toàn có thể sống một cách “ngất ngưởng” và bộc lộ niềm tự hào (thậm chí tự phụ) về điều đó ở câu cuối bài thơ. Như trên đã trình bày, câu cuối này có hai dị bản “Trong triều ai ngất ngưởng như ông” và “Đời ai ngất ngưởng như ông” và có lẽ Nguyễn Công Trứ ngất ngưởng với cả “đời” (thế gian) chứ không chỉ “trong triều”. Cái ngất ngưởng này là cái ngất ngưởng của ba cái ngất ngưởng trên cộng lại: tài cao (sự nghiệp) ngất ngưởng, về hưu ngất ngưởng, sống đời sống ngất ngưởng. Đó là chân dung tự họa của Nguyễn Công Trứ.

***

Trên đây là một số ý kiến của chúng tôi về văn bản và cách tiếp cận bài thơ. Nói về văn bản, dù ý kiến người đọc (dẫu chuyên nghiệp hay không) có chứng lí đến mấy thì nó cũng không thay thế được “thủ cảo” (nếu có) của tác giả. Nhưng, cho đến khi tìm được “thủ cảo” đó thì độc giả có quyền tạo dựng cho mình một văn bản lí tưởng nhất, tối ưu nhất. Văn bản chúng tôi xác lập chỉ là một phương án đề xuất với hi vọng đó. Nói về hướng tiếp cận bài thơ, cũng không thể có một tiếng nói cuối cùng cho một tác phẩm văn học đích thực, có giá trị. Đó là một hành trình khám phá. Hướng tiếp cận của chúng tôi cũng là một kiểu khám phá: xuất phát từ tiêu đề bài thơ/ cũng là từ từ ngữ xuất hiện với tần số dày nhất trong tác phẩm, coi đó là “mã khóa” để mở cánh cửa đi vào thế giới nghệ thuật tác phẩm. Nếu có thể giúp chạm tới một trong những “ý tứ” của thế giới đó, thì ấy là một trong những điều lí tưởng của bài viết này./.

[1] Trong Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, Đoàn Tử Huyến chủ biên, Nxb Nghệ An & Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2008.

[2] Nguyên bản Nôm duy nhất ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu A.3075, ước chép vào quãng cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX.

[3] Trong Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ, Lê Văn Tân xuất bản, Hà Nội, 1928; Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Nxb Văn hóa, Hà Nội,1958 (soạn chung với Hoàng Ngọc Phách, Trương Chính).

[4] Trong Việt Nam ca trù biên khảo, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1962. Theo Đoàn Lê Giang thì thực chất văn bản trong Việt Nam ca trù biên khảo là theo văn bản của Văn đàn bảo giám (Trần Trung Viên biên soạn), xuất bản lần đầu từ 1926 đến 1938.

[5] Trong Năm thế kỉ văn Nôm người Nghệ, Nxb Nghệ An, Vinh,1994.

[6] Đoàn Lê Giang, Vấn đề văn bản bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 2/2006.

[7] Xem Báo cáo đề dẫn, trong Kỉ yếu hội thảo Danh nhân văn hóa Nguyễn Công Trứ, Trường Đại học KHXH&NV, ĐH Quốc gia Hà Nội và Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch Hà Tĩnh, Hà Tĩnh, 2008.

[8] Thư Tân Thành, Thẩm Di, Từ Nguyên Cáo, Trương Tương (cb), Từ hải (chính tục biên hợp đính bản), Trung Hoa Thư Cục, Thượng Hải, 1947, trang 354.

[9] Từ hải (chính tục biên hợp đính bản), trang 327.

[10] Từ hải (chính tục biên hợp đính bản), trang 676.

[11] Từ hải (chính tục biên hợp đính bản), trang 679.

[12] Lại Văn Hùng. Tác giả Nguyễn Huy Quýnh và mười bài thơ họa thập cảnh Quan Lan sào, Tạp chí Hán Nôm, số 4/2003.

[13] Từ hải (chính tục biên hợp đính bản), trang 676.

[14] Vì thế, cách hiểu “vào nhòng” cũng không phải không có lí.

Nguyễn Thanh Tùng