Nỗi buồn của nơi quán chật đèo cao, của sông dài trời rộng, nỗi buồn của đêm mưa cô đơn hiu hắt, trong niềm nhớ thương trải ra cùng với những hồn thơ hoang mang, nặng trĩu một nỗi sầu cho suốt một thời kì rất buồn và cũng rất xôn xao. Với Huy Cận, những nỗi buồn ấy như triền miên, day dứt hơn bao giờ hết khi tiếng của điệu hồn thiên cổ cất lên, làm cho mạch sâu ngàn năm chợt da diết, chơi vơi.

Xem thêm: Hồn buồn trường cửu trong thơ Huy Cận

Đã có một thời kì, thơ Việt Nam ” buồn và xôn xao đến thế”. Đó là thời kì những năm đầu thế kỉ hai mươi, khi bộ mặt thật của “tự do, bình đẳng, bác ái” lộ rõ trước hiện thực, có những con người hoang mang, mất phương hướng và tưởng chừng như chỉ biết lẩn quẩn trong vòng bế tắc. Nhưng không, họ đã đứng lên, ngạo nghễ khẳng định tâm tư, suy nghĩ của mình, dẫu đôi khi yếu đuối rầu rĩ. Những gương mặt với phong cách độc đáo lần lượt xuất hiện. Những hồn thơ tình, thơ điên…có khi xôn xao, khi cuồn cuộn, khi dữ dội bão táp. Nhưng tất cả chỉ nằm trong một chữ tôi bơ vơ, sâu vô cùng tận. Và trong chiều sâu ấy, Huy Cận đã cùng chúng ta nếm trải và ảo não qua thời gian. Nhà thơ không say đắm tình yêu, không vội vàng tận hưởng cuộc sống như Xuân Diệu, cũng không điên cuồng đau thương chất ngất như Hàn Mặc Tử mà cũng chẳng “nhà quê” như Nguyễn Bính…nỗi buồn “mang mang thiên cổ sầu” như ngọn lửa âm ỉ cháy cho những rung động với quê hương, với con người và với cuộc đời. Và độc đáo hơn, ngay trong cách lựa chọn và cách thể hiện của Huy Cận cũng mang một nét riêng biệt, một tâm hồn lúc nào cũng trải ra, sẵn sàng “bâng khuâng” với trời rộng, và sông dài, với nỗi sầu thân thế, nhân thế bao quanh. Và “Tràng Giang” cũng là một trong những chuỗi cảm hứng cho nỗi buồn triền miên, bất tận. Cả bài thơ là sự kết hợp giữa chất cổ điển Đường thi trong cảnh vật và chất hiện đại trong sư cảm nhận của thi sĩ làm bật lên một cái tôi giữa dòng đời – cái tôi Huy Cận, hoàn toàn riêng biệt.

Được gợi tứ từ vẻ đẹp nên thơ của con sông Hồng, những câu thơ của Tràng Giang mang theo ngọn sóng ấy, lăn tăn chảy mãi, bất tận. Đó là sóng của con sông dài hun hút chảy đến cuối trời hay là con sóng trong lòng đang gợi lên, vời vợi, mênh mang? Ấn tượng của những câu thơ đầu là một không gian tràng giang sóng nước:

“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.

Một không gian mở ra đậm chất Đường Thi. Đó là sự tập trung cao độ của cái rộng lớn mênh mông, cái tĩnh lặng lan tỏa trong công gian vô tận.Cũng là ngọn sóng theo dòng nước trôi về, nhưng ngọn sóng Tràng Giang không hề cuồn cuộn, dữ dội hay lăn tăn, mà lại là “điệp điệp”. Phải chăng đó là cái “điệp điệp” từ trong lòng người trĩu nặng ra cảnh? Không gian sóng nước chợt rợn ngợp, vô cùng hơn khi hình ảnh con thuyền đơn độc, lẻ loi xuất hiện. Chiếc thuyền nhỏ bé lênh đênh trôi dạt theo dòng chảy chẳng biết đi đâu về đâu. Nhưng cô đơn, quạnh quẽ hơn khi thuyền và nước lại di chuyển trái chiều nhau ” thuyền về nước lại”. Giữa không gian ấy, hình ảnh con thuyền nổi nênh cùng “mái nước song song”, làm đậm thêm cho cái mênh mông vô cùng tận của không gian, cái nhỏ bé hữu hạn của con người trong dòng đời ngược xuôi cũng như gợi lên nỗi sầu trăm ngả. Sầu vô cùng, sầu tứ phía, ngàn mây. Thấp thoáng trong những hình ảnh ấy là bòng dáng của Đường Thi gợi lên cái hồn buồn Đông Á từ lâu vẫn ngấm ngầm trong cõi đất Việt trĩu nặng. “Sóng”, “thuyền” làm nên nỗi sầu trăm ngả. Nhưng “củi một cành khô” lại làm nên một cảm giác chênh chao theo cuộc đời heo hút. Hình ảnh “củi” đã nhỏ bé, đã mong manh, nhưng “củi một cành khô” lại càng nhỏ bé, càng mong manh đến tưởng chừng như mất hút trong những con sóng nối tiếp nhau tạo nên cảm giác lạc lõng, bâng khuâng. Sự lẻ loi buồn tủi đến bây giờ mới lên đỉnh điểm. Đẹp nhưng buồn và cô đơn, bức tranh thiên nhiên trong khổ thơ là minh chứng rõ nét cho một cái tôi trữ tình mang theo nhiều trăn trở, cái tôi muốn vượt ra vòng lẩn quẩn u tối nhưng lại bị nỗi sầu thời cuộc đè nặng khiến cho bơ vơ, lạc lõng.

Nếu như bức tranh thiên nhiên ở khổ thơ đầu mênh mông, điệp điệp thì khổ thơ thứ hai, nỗi buồn ấy chợt sâu lắng, lặng lẽ nhiều hơn:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Không gian vốn rộng nay càng rộng thêm ra. Vẻ đẹp của bờ bãi mở ra hút tầm mắt bên cạnh những cồn cát nhấp nhô, vô tận. Tiếng lòng “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” chút hoài niệm về tiếng chợ quê ấm áp, âm vang. Những cồn cát “lơ thơ” rời rạc, những tiếng “đìu hiu” gợi về không gian xa vắng mênh mông mang theo cái lạnh rùng mình, cái hoang mang cho nỗi niềm cô đơn. Nhưng tiếng chợ chiều giờ đây chỉ là những tiếng ồn ã không đầy đủ vọng về từ xa xăm, không đủ sức làm cho cái tĩnh lặng của không gian tan biến. Và ánh nhìn của nhà thơ bắt gặp cái nhìn của buổi chiều:

“Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Vẻ đẹp thiên nhiên với đầy đủ chiều kích, màu sắc hiện lên rõ ràng. “Nắng xuống” – “trời lên” – hai hình ảnh vận động trái ngược nhau làm cho không gian thêm được chiều sâu. Cái nắng thãm cuối ngày mang theo một nỗi buồn hoài cổ, nỗi buồn sâu lắng trước cảnh thiên nhiên đẹp nao lòng. Cảm xúc cứ lướt nhẹ nhàng, để rồi đọng lại trong hình ảnh “bến cô liêu” của sông dài trời rông. Ta tự hỏi tại sao tác giả không dùng bất kì từ nào khác để diễn tả bến bờ mà lại là “bến cô liêu”? Bởi chỉ có “cô liêu” mới đủ sức lột tả hết đượcn hững gì hoang vắng , lạnh lẽo, trống trải, cô đơn trong hồn người.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Nỗi buồn vì tiếng chợ chiều đã vãn, không gian dường như chỉ thêm cô độc hơn khi chẳng có một dấu hiệu nào báo hiệu cho sự sống. Hoàn toàn tĩnh lặng, những cánh bèo nối liền nhau trong tâm tưởng “đi đâu về đâu” được sắp đặt khéo léo như ý niệm về thân phận “bèo dạt mây trôi” của kiếp người. Đằng au đó là nỗi băn khoăn trăn trở của cả một lớp người bế tắc. “Hàng nối hàng” là sự đặc tả về mật độ nhưng đồng thời đó cũng là cảm giác miên man dằng dặc . Hai câu thơ tiếp theo là sự vô vọng tìm về phía ánh sáng. Không một chuyến đò cũng không một chiếc cầu, chẳng còn mối dây liên hệ, cũng chẳng còn niềm thân mật nào bám víu vào tâm hồn cũng như cảnh vật. Đến lúc này, những gam màu mới đậm thêm, tô rõ cho bởi chiều tà những gam màu buồn lặng lẽ. Khoảnh khắc ánh xanh của bờ bãi và nét vàng phôi pha xuất hiện như chính là lúc con người chìm đắm trong nỗi buồn thăm thẳm vô bờ.

Khép lại bài thơ là một khổ thơ tập trung những nét thiên nhiên và nét tâm tình con người. Ở đó là cả một nỗi buồn thân thế mênh mông vô cùng:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Ánh hoàng hôn hắt lên trong những đám mây dày đặc tạo nên một màu bạc tráng lệ, hùng vĩ. Những lớp mây chất chồng lên nhau như một sự ngưng đọng, sự ngập đầy dần của nỗi niềm con người. Cánh chim bơ vơ càng thể hiện nỗi thấm thía, cô đơn và sự lạc lõng, bé nhỏ của mình. Cánh chim chở bao nhiêu khát vọng muốn vượt lên trên nhưng dường như trước bóng chiều nặng trĩu, u tịch, cánh chim ấy không thể kéo nổi sức nặng bầu trời và dần mất đà, “sa” nhanh theo bóng chiều. Cảm giác chênh chao một lần nữa xuất hiện gợi lên biết bao nhiêu cảm xúc mới khác nhau để rồi nổi bật lên trong nỗi sầu là tình yêu quê hương da diết khôn nguôi:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Đến đây, dòng tràng giang của đất trời đã hòa nhịp vào dòng “tràng giang” của lòng người. Nhịp chảy vẫn cứ vô tình nối tiếp đều nhau thêm triền miên, bất tận. Hai chữ “dợn dợn” thật đắt, vừa là dợn dợn trong tâm cảnh và cũng vừa là dợn dợn trong tâm hồn. Tràng Giang là một trong những tứ thơ hay và sâu lắng nhất thể hiện cái tôi trữ tình của Huy Cận, cái tôi buồn sầu trăm ngả, sẵn sàng nôn nao trước cảnh vật, chỉ chực chờ trào ra nơi đầu ngọn bút:

“Đêm mưa làm nhớ không gian
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la…
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nằng nặng nghe ta buồn buồn”

(Buồn đêm mưa)

Một nỗi cô đơn quạnh quẽ đọng trong không gian thấm đẫm mưa lạnh. Cảnh vật sầu một nỗi đơn sơ, hoang vắng nhưng cũng chính là nỗi sầu từ trong chính tâm can tỏa ra ngoài. Ở câu thơ thứ hai, tác giả sử dụng hai từ ngữ cùng trường nghĩa “lạnh” – ” hàn”, sự lặp lại không hề vô tâm, vô tình mà là một sự lặp lại một cách có chủ đích như để nhắc nhớ, để làm đậm thêm cái lạnh lẽo, cô quạnh trong không gian cũng như trong lòng. Một nỗi bao la bao trùm lấy con người. Mưa đã buồn, lòng người còn buồn hơn. Sầu não, muộn phiền đến tê tái, những giọt sầu cứ thế mà rơi rớt, mà “nằng nặng”, “buồn buồn”. Ta có cảm giác như không gian đang trĩu xuống, đọng một nỗi niềm thời gian.

Một nỗi buồn thấm thía, một nỗi buồn không hề bất chợt mà xuyên suốt trong cả thời kỳ sáng tác của Huy Cận mang theo cả nỗi ám ảnh của sông dài trời rộng, quán chật đèo cao:

“Ngập ngừng mép núi quanh co
Lưng đèo quán dựng, mưa lò mái ngang..
Vi vu gió hút nẻo vàng
Một trời thu rộng mấy hàng mây nao”

(Đẹp xưa)

Không gian lưng chừng đèo mở ra cái vô cùng tận của vũ trụ, thời gian. Những cảnh vật ở đây sao heo hút, bâng khuâng, lòng người sao ngập ngừng buồn tủi. Mưa gió cứ vô tình lướt ngang, trời mây vẫn cứ vô tình trôi đâu hay trong tâm hồn con người đang chợt dâng lên nỗi sầu chất ngất. Những tâm tư đóng kín lại, chỉ còn nỗi giá lạnh băn khoăn chực chờ trong tâm hồn Huy Cận, chỉ muốn quên và buồn riêng mình mà thôi.

Nhưng cũng không hẳn vì thế mà cái hồn nao nao của Huy Cận chỉ nặng sầu cô đơn. Vẫn còn đó những ước vọng, khát khao về một tình yêu trong sáng, về một mối giao cảm thiết tha, dẫu mỏng manh thầm lặng:

“Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong.
Hôm xưa em đến mắt như lòng.
Nở bừng ánh sáng. Em đi đến,
Gót ngọc dồn hương, bước tỏa hồng”

(Áo trắng)

Một hình ảnh trong sáng, thánh thiện bừng lên giữa không gian thời cuộc u tối, vô tình. Một giấc mộng giản đơn, mong manh đi tìm tấm lòng đồng cảm với tình yêu, tình người. Nét bừng sáng của tà áo tinh khôi như làm nhạc điệu của nỗi sầu thiên cổ chợt lạc đi, để rung động cho một tình cảm sâu kín. Bước chân e thẹn kia chợt làm cho không gian u tối bao quanh tâm hồn nhà thơ chợt bừng sáng, ấm áp. Chàng Huy Cận say sưa viết, say sưa kiếm tìm cho một tình cảm chan chứa, nồng nàn.Nhưng cuộc đời tréo ngoe, những tâm tư chợt quay lưng lại giữa tiếng gọi thiết tha, tiếng than thở khóc thương cho mối tình nhân thế:

“Đời tàn rơi cùng sao rụng canh thâu
Và trăng lu xế nửa mái tình sầu,
Gió than thở biết mấy lời van vỉ?”

(Tình tự)

Niềm giao cảm đã mất, tình yêu không bền, chết đi trong tiếng thở dài của cô đơn, trong sự lạnh lùng vô cảm của cuộc đời, để rồi khúc nhạc sầu có lúc ngỡ như dịu đi chợt bùng lên, réo rắt sầu thương:

“Ai chết đó? Nhạc sầu chi lắm thế!
Chiều mồ côi, đời rét mướt ngoài đường”

(Nhạc sầu)

Câu hỏi cất lên như vô tình, như muốn quên đi tiếng lòng mình đang buồn thương đến thắt nghẹn. Lời tự vấn cho nỗi niềm riêng tư hay là tự vấn chính cuộc đời bạc bẽo?Tình riêng chẳng bền lâu, tình người chẳng còn là nơi để bám víu, những khúc nhạc sầu từ cõi lòng cứ thế ngân lên, rợn ngợp. Trời chiều bâng khuâng, “mồ côi” như chính thân phận của những con người hoang mang không biết lấy niềm tin nơi đâu để đỡ đần. Nói thay cho những cõi lòng ấy, thương người nhưng cũng là để thương chính mình, Huy Cận nhận ra dù có muốn vượt ra những giới hạn tối tăm nhưng không thể. Biết làm sao được khi tất cả các chốn đều khép kín, vô tình, chỉ còn lại cái “rét mướt” kéo nhịp cùng nhạc sầu ảo não, cô đơn.

Chẳng cần “nâng khăn lau mắt lệ” mới có thể diễn tả được nỗi cô đơn, nỗi buồn trong chính tâm hồn mình, trong lòng Huy Cận đã dào dạt nỗi niềm bâng khuâng. Lặng lẽ, mải miết, ông vẫn đi tìm để được hòa vào nhịp sống của thế giới nội tâm bên trong lòng người.

Dẫu biết rằng đó là bi lụy, cô đơn, nhưng nỗi sầu của cái tôi trong thơ Mới nói chung và nhất là thơ Huy Cận nói riêng vẫn dào dạt, đắm say. Họ vẫn cứ viết bằng tất cả tâm tư, tình cảm, để được nói lên tiếng nói tha thiết muốn được đón lấy cuộc đời, được sống với khát vọng và niềm tin của chính mình. Những vần thơ ấy cứ lặng thầm chảy mãi cho nỗi niềm của cả một thế hệ, một thời đại để rồi sau này chợt ngân lên như một dấu ấn của thời gian.

Đỗ Lê Bảo Duyên