Thi tửu cầm kỳ khách
Phong vân tuyết nguyệt thiên(1)
Nợ tang bồng hẹn khách thiếu niên
Cuộc hành lạc vẫy vùng cho phỉ chí
Thơ một túi gieo vần Đỗ, Lý(2)
Rượu lưng bầu rót chén Lưu Linh(3)
Đàn Bá Nha(4) gảy khúc tính tang tình
Cờ Đế Thích(5) đi về xe pháo mã
Lúc vị ngộ Vị tân, Sằn dã(6)
Lấy bút nghiên mà hẹn với non sông
Xe Thang, Văn nhất đán tao phùng(7)
Bao nhiêu nợ tang bồng(8) đem giả hết
Tri mệnh thức thời duy tuấn kiệt
Hữu duyên hà xứ bất phong lưu?

Ngô nhân hà cụ hà ưu(9)?

Nguồn: Nguyễn Công Trứ cuộc đời và thơ do Đoàn Tử Huyến chủ biên, NXB Lao động, 2011


* Chú thích:

(1) Khách có thơ, rượu, đàn, cờ. Trời có gió, mây, trăng, tuyết. Hai câu này ở trong sách Trạng nguyên ngũ ngôn thi.

(2) Đỗ – Lý: Đỗ Phủ và Lý Bạch, hai nhà thơ lớn đời Thịnh Đường.

(3) Lưu Linh: đời nhà Tấn, quê ở Bái Quận, tính phóng khoáng, nổi tiếng vì tài uống rượu.

(4) Bá Nha: đời Chiến Quốc, quê ở Dĩnh Đô, giỏi đàn; có Chung Tử Kỳ ở Hán Dương nghe tiếng đàn, hiểu được lòng Bá Nha. Tử Kỳ chết, Bá Nha đập vỡ đàn, không đánh nữa.

(5) Đế thích: một ông tiên nổi tiếng cao cờ.

(6) Vị ngộ: chưa gặp thời. Vị tân, Sằn dã: bến sông Vị Thủy, cánh đồng Hữu Sằn. Lã Thượng khi chưa gặp Chu Văn Vương thường ngồi câu ở bến sông Vị, Y Doãn khi chưa gặp Thành Thang, thường đi cày ở đồng Hữu Sằn. Câu này nói: Lúc chưa gặp thời cứ yên phận như Lã Thượng đi câu, Y Doãn đi cày để đợi minh chủ.

(7) Thang – Văn: vua Thành Thang, tổ nhà Thương và vua Văn Vương, tổ nhà Chu; Nhất đán tao phùng: một sớm gặp gỡ.

(8) Tang bồng: Xem chú thích ở bài Đi thi tự vịnh.

(9) Chỉ có người tài giỏi mới biết được mệnh và thời, Người có duyên ở đâu mà chẳng phong lưu. Ta há phải lo phải sợ?