Nhắc đến giáo sư Đặng Thai Mai (1902 – 1984) là nhắc đến một tên tuổi lớn, một học giả uyên bác, một chiến sĩ tiên phong trên lĩnh vực ý thức hệ văn nghệ. Xuất thân trong một gia đình có truyền thống yêu nước và cách mạng, ông suốt đời gắn bó với sự nghiệp cách mạng của Đảng, đảm nhiệm nhiều chức trách, có nhiều đóng góp quan trọng, mà quan trọng nhất là góp phần đặc lực kiến tạo diễn ngôn lí luận văn nghệ cách mạng.
Là người thông tuệ, tốt nghiệp trường Cao đẳng Đông Dương, cùng những người nổi tiếng mở trường trung học Gia Long rồi Thăng Long, ông trở thành giáo sư, thành học giả. Là người thông hiểu văn hóa văn học châu Âu, lại thông hiểu văn hóa văn học Trung Quốc, ông có tri thức uyên bác để tham gia nhiều hoạt động văn hóa của đất nước. Ông là con người hoạt động đa diện: quản lí, đấu tranh tư tưởng, tuyên truyền, giáo dục, chính trị, dịch thuật, sưu tầm nghiên cứu văn học cách mạng, giới thiệu văn học nước ngoài, nhưng lí luận, phê bình văn học là lĩnh vực chính. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, đánh giá cao ông về các mặt, nhưng một cái nhìn toàn cục về tư tưởng lí luận của ông vẫn đang nằm ở phía trước, bởi viết về ông vẫn có những điều không dễ. Là kẻ hậu học, người hâm mộ, tôi đã viết về Văn học khái luận, về Giảng văn Chinh phụ ngâm của ông, lần này sau ba mươi năm ngày mất của ông, xin mạo muội nêu vài suy nghĩ bước đầu về ông với tư cách là nhà lí luận văn học.
Đặng Thai Mai trước hết là một con người yêu nước và cách mạng, mặc dù ông vẫn tâm niệm câu thơ của Viên Mai : “Lập thân tối hạ thị văn chương.”, song do lĩnh vực công tác buộc ông phải theo đường học thuật, và có một cuộc đời học thuật. Trong Hồi kí, ta biết ông “thực sự bắt đầu viết từ khi có Mặt trận Bình dân do Đảng lãnh đạo”, ông dấn thân theo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam từ trước đến sau. Nhà văn Trương Chính khi viết về Đặng Thai Mai, đã có nhận định xác đáng, rằng do cương vị của mình mà ông “là người thiên về phương pháp luận và chỉ đạo hơn là người nghiên cứu thực sự.”[i] (tôi nhấn mạnh – TĐS). Điểm lại các bài viết từ trước đến sau năm 1945 thì quả đúng như thế. Hãy đọc nhan đề các bài nghị luận của ông như Vần đề lập trường trong văn nghệ, Cần phải tu dưỡng nghệ thuật về phần chính trị, Chung quanh vấn đề tu dưỡng nghệ thuật, Kháng chiến và văn hóa, Vài ý nghĩ về nghệ thuật, Nghệ thuật và tuyên truyền, Nhân vật và lịch sử, Vấn đề lập trường trong văn nghệ, Một vài vấn đề lí luận về văn nghệ kháng chiến, Quán triệt tinh thần của Hồ Chủ Tịch vào công tác nghiên cứu văn học, Căn bản vẫn là vấn đề lập trường tư tưởng, Vai trò lãnh đạo của Đảng trên mặt trận văn học ba mươi năm nay, Trên nguyên tắc tính đảng, phấn đấu cho một nền văn nghệ dân tộc ngày càng phong phú, đẹp đẽ, Nắm vững nguyên tắc văn học có tính Đảng, Xây dựng văn nghệ dân tộc, …thì rõ rang là các bài viết của ông đặt ở tầm cao chỉ đạo, đứng mấp mé bên cạnh các bài của các ông Trường Chinh, Tố Hữu. Nếu một số nhà lí luận khi đề cập tới các vấn đề đó, thường dùng các uyển ngữ như “Dưới ngọn cờ”, “Dưới ánh sáng”, “Noi theo”… thì Đặng Thai Mai không bao giờ dùng đến các biểu đạt đó. Ông trực tiếp tuyên bố các nguyên tắc quan trọng, các khẩu hiệu chính thức của cách mạng. Điều đó chứng tỏ vị thế của ông trên mặt trận lí luận của nhà nước. Ông không viết riêng về văn học, mà quan tâm chung về toàn bộ lĩnh vực văn nghệ, văn hóa cũng chứng tỏ điều đó. Nhưng ông khác các ông Trường Chinh, Tố Hữu là ở tư cách học giả, tư cách người làm học thuật và chính với tư cách ấy ông đã góp phần tích cực cho công tác chính trị, tư tưởng trong giới văn nghệ. Bởi theo ông “học thuật và hành động luôn luôn gắn bó với nhau”[ii].Học thuật của ông là học thuật phục vụ Đảng và phục vụ cách mạng, không có học thuật thuần túy. Theo cương vị đó Đặng Thai Mai đã hình dung trước hết các vấn đề lí luận văn học thiết yếu, khẳng định mối quan hệ giữa văn học nghệ thuật và tuyên truyền, khẳng định vai trò hàng đầu của lập trường, tư tưởng trong hoạt đọng văn nghệ, biểu dương một số hiện tượng văn học tiêu biểu theo quan điểm văn nghệ mác xít. Đặng Thai Mai là người có công lao đắc lực đối với việc thực hiện đường lối văn nghệ của Đảng trên mặt trận lí luận.
Đặng Thai Mai đã phát huy bản sắc học giả của mình trong suốt quá trình hoạt động lí luận. Mọi người đều biết ngay sau khi bản Đề cương văn hóa của Đảng, một bản tuyên ngôn về đường lối văn hóa văn nghệ mác xít ở Việt Nam do Trường Chinh khởi thảo, ra đời năm 1943, còn rất cô đọng và sơ lược, thì chỉ một năm sau Đặng Thai Mai đã có ngay cuốn Văn học khái luận dày dặn in ở nhà Hàn Thuyên năm 1944 để hưởng ứng, nói rõ về các nguyên tắc văn nghệ macrxist. Sách này có bảy chương nói về các vấn đề lí luận thiết cốt nhất, gắn với thực tiễn của lí luận lúc bấy giờ. Nếu đề cương của ông Trường Chinh mới chỉ là định hướng chung mà sau này ông sẽ còn bổ sung phát triển trong báo cáo toàn diện năm 1948, thì Văn học khái luận đã là một hệ thống khá hoàn chỉnh. Ngoài chương một dành để định nghĩa hai chữ văn học, chương hai trình bày nguyên tắc văn học biểu hiện ý thức hệ và phát triển cùng sự tiến hóa của xã hội. Chương ba nêu vấn đề sáng tác, trong đó nhà văn bao giờ cũng đại diện cho giai tầng xã hội (tính giai cấp), thuận theo luật tiến hóa, từ phong kiến, qua tư bản chủ nhĩa và đi lên xã hội chủ nghĩa. Ông là người tiếp nối sau ông Hải Triều và Trường Chinh nói về phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa. “Trong giai đoạn ngày nay, phương pháp sáng tác cần phải đem nghệ thuật “xã hội hiện thực chủ nghĩa” (tức chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa – TĐS) mà đánh đổ văn học duy tâm, và nghệ thuật lãng mạn”. Chương 4 bàn về nội dung và hinh thức, chương 5 bàn về điển hình và cá tính, chương 6 bàn về tự do sang tác, chương 7 bàn về tính dân tộc và tính quốc tế. Một bố cục như thế là gồm đủ các vấn đề then chốt nhất của lí luận văn học marxism dưới dạng cô đọng nhất. Ông đã chọn rất đúng các trọng điểm. Đặng Thai Mai rất coi trọng việc đấu tranh về quan điểm, không trình bày một chiều. Ông lần lượt đấu tranh quan điểm với Hồ Hoài Thám, Hồ Phong, Baldensperger, Lan Khai, Lưu Trọng Lư, khẳng định quan điểm của Plekhanov, Chu Dương, đồng thời khẳng định các chủ trương dùng lí luận duy vật mác xít mà đánh đổ các tư tưởng và nghệ thuật duy tâm tư sản như Đề cương văn hóa đã vạch ra.
Do có tầm hiểu biết rộng, đặc biệt là văn học so sánh, cho nên khi diễn giải về tính dân tộc của văn học, khác với hai ông Lan Khai và Lưu Trọng Lư, ông đã hiểu rằng không có tính dân tộc thuần túy, tính dân tộc luôn có tính lai tạp và biến đổi theo lịch sử. Ông viết: “Nhưng thế nào là hoàn toàn Việt Nam? Tiếng nói, câu văn, tư tưởng của chúng ta, cũng như lịch sử của chúng ta đã luôn luôn có liên lạc (tức là liên hệ – TĐS) với các “dị tộc” đã chịu ảnh hưởng của nước ngoài thì làm sao mà có những tài liệu (tức chất liệu – TĐS) hoàn toàn Việt Nam?”[iii] Ông Đặng Thai Mai đã có quan điểm khá cởi mở về việc tiếp thu văn nghệ nước ngoài để làm giàu cho văn nghệ mình, cũng như có quan niệm đúng về quan hệ văn học dân tộc và văn học thế giới. Ông viết: “nếu như muốn gây dựng một nền văn học quốc gia cho đầy đủ, vững vàng thì ta càng cần thâu thái lấy những tinh hoa của thế giới, của nhân loại.”[iv]Lúc này ông chưa nói “tiếp thu có phê phán”như sau này ta vẫn nói. Về sáng tác ông khẳng định nội dung và hình thức thống nhất với nhau, nhưng trong thực tế lịch sử chúng thường có sự mâu thuẫn, có khi chỉ là bình cũ rượu mới, điều đó thúc đẩy sự nảy sinh nghệ thuật mới, như văn mới, thơ mới. Trong cuốn sách này Đặng Thai Mai đã nhấn mạnh đến ý thức hệ luận, giai cấp luận, công cụ luận, mà chưa thấy tính đặc thù của văn học nghệ thuật, một vấn đề mà Hải Triều trước đó chưa giải quyết. Khi định nghĩa về văn học ông viết: “Văn học cũng là một bộ môn của văn hóa, hay là nói theo danh từ xã hội học ngày nay, một hình thái ý thức (forms d’ideologie)”, tức là hình thái của ý thức hệ. Khi dẫn chứng, ông nêu: “Thử mở một bộ văn học sử nước Pháp ra chẳng hạn, bên các nhà văn thi sĩ như Ronsard và Du Bellay, Lamartine hay Hugo, ta còn thấy những nhà triết học như như Descartes hay Victor Cousin. Bên cạnh những thi ca lãng mạn hay cổ điển ta còn đọc những bài văn có tính cách hùng biện, hoặc những bài văn tranh đấu, các tác phẩm về văn học chính trị, hoặc văn khoa học nữa.” (tr. 58 –
59)[v]. Do hiểu văn học theo nghĩa rộng như thế mà ông đã diễn giải khái niệm văn học thành hai nghĩa. Một là một bộ môn của văn hóa như vừa nêu và hai là một “học khoa” nghiên cứu các áng văn nói trên. (tr. 53). Nhưng thiết nghĩ nếu nghiên cứu tất cả các áng văn nói trên bao gồm cả triết học, kinh tế học, chính trị, khoa học thì vẫn không phải là “học khoa” lí luận văn học như ông muốn! Ý này ông tham khảo Hồ Hoài Thám, một học giả đương thời khoảng năm 20-40 thế kỉ XX, ông này cũng cho rằng từ văn học có hai nghĩa như thế. Song đó chỉ là ý riêng của ông Thám. Theo Thanh Lãng cho biết thời này ông Nguyễn Hưng Phấn trong bài Tìm nghĩa văn học cũng có cách hiểu tương tự như Đặng Thai Mai. Nhìn trong bối cảnh rộng đương thời, so với khái niệm văn học trong Hán ngữ từ điển của Lê Cẩm Hy (Trung Quốc) năm 1933, so với cách hiểu của ông Võ Liêm Sơn từ năm 1925 về văn học, thì có thể nói khái niệm của giáo sư không phải là cập nhật nhất. Sự thiếu hụt ý niệm đầy đủ về đặc trưng nghệ thuật này còn tiếp tục sau đó. Trong bài Chân lí nghệ thuật (1946) ông tuyên bố: “Chỗ khác nhau giữa nghệ thuật và khoa học nói cho đúng thì chỉ là một vấn đề hình thức.”[vi] Đây là quan niệm lí luận của Liên Xô dưới thời Stalin, bắt nguồn từ Bielinski. Đáng chú ý là Tố Hữu và Trường Chinh đã chụ ảnh hưởng của ông. Trong một báo cáo, Tố Hữu đã lấy văn học chính trị của Hồ Chí Minh, Trường chinh ra làm mẫu mực cho văn học. Đây có thể là nguyên do đồng nhất văn nghệ và tuyên truyền thịnh hành trong thời kháng chiến chống Pháp. Trong bài Xây dựng văn nghệ nhân dân Việt Nam, đọc tại Đại hội Đảng lần thứ 2, 1951, trong mục Văn nghệ phục vụ cách mạng và kháng chiến, Tố Hữu nói: “Địa vị chủ yếu của văn học là văn chương chính trị. Văn Hồ Chí Minh là tiêu biểu rõ rang nhất của văn chương mới theo phương châm dân tộc khoa học đại chúng.”[vii], khái niệm “văn chương chính trị” ở đâyPPP nhất định có liên quan với quan niệm văn học rộng mênh mông, không phân biệt đặc thù nói trên.
Ngoài lí luận văn học ông cũng là người sưu tầm biên soạn cuốn Văn học cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX khá phong phú và có giá trị. Cho đến bây giờ vẫn là một tài liệu đáng tin cậy, được trích dẫn.
Đặng Thai Mai là nhà phê bình học thuật sắc sảo, thấu đáo. Trong bài phê bình cuốn Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi ông đã chỉ ra nhiều thiếu sót thuần túy học thuật đối với một cuốn văn học sử vào thời mà văn học sử nước nhà còn đang ở trong giai đoạn phôi thai. Một bài phê bình cuốn Tương lai văn nghệ Việt Nam của nhà văn Trương Tửu, tuy có chỗ này chỗ khác, song cách nêu vấn đề và phân tích khá khúc chiết, thấu đáo. Sau này ông cũng viết các bài phê bình về thơ Tố Hữu (1959), phê bình Nhất kí trong tù đều có những ý tưởng độc đáo.
Đặng Thai Mai còn là nhà phân tích tác phẩm văn học có phương pháp. Cuốn Giảng văn Chinh phụ ngâm năm 1949 xuất bản ở Thanh Hóa là một công trình có những gợi ý quý báu cho người dạy học văn học còn non trẻ của nước nhà. Ông khẳng định đọc văn cần phải hiểu, và có hiểu mới cảm được cái hay. Ông cũng cho hay giảng văn không có mẫu sẵn, mỗi người mỗi lúc có thể có những lối giảng văn đa dạng. Tuy vậy đem mối quan tâm giảng văn mà thay cho đọc văn, một mặt nào đó chính là cội nguồn của lối dạy đọc chép rất tai hại sau này.
Đặng Thai Mai là người hết sức yêu chuộng văn học Trung Quốc. Ông cho rằng Trung Quốc đã ảnh hưởng nước ta và sẽ còn ảnh hưởng lâu dài, nhất là văn học hiện đại, vì thế ông có cả một chương trình giới thiệu văn học, văn hóa, lịch sử Trung Quốc. Nhằm giới thiệu lịch sử văn học hiện đại Trung Quốc vào Việt Nam Đặng Thai Mai đã biên soạn cuốn Lược sử văn học hiện đại Trung Quốc tập 1 (từ 1919 – 1927), nxb Sự Thật, Hà Nội, 1957, không có tập 2. Cuốn này ông soạn dựa vào tư liệu của hai cuốn văn học sử khá có uy tín lúc bấy giờ ở Trung Quốc của tác giả Vương Dao (không phải là Giao như trong toàn tập in), và tác giả Đinh Dị. Sở dĩ không có tập 2, tôi nghĩ là do số phận hai cuốn sách văn học sử nói trên ở Trung Quốc. Cuốn của Vương Dao ra đời năm 1951, và ngay sau đó, 1953, bị phê phán, đến năm 1956 tác giả của nó bị quy là phái hữu, toàn bộ sách được coi là thể hiện quan điểm tư sản, tập 2 được cho là biện hộ cho Hồ Phong. Ông phải viết kiểm điểm, sách không dùng dạy đại học nữa[viii]. Trong điều kiện đó tất nhiên ông không thể viết tập 2 được. Do không có điều kiện đọc và am hiểu kĩ các tác phẩm văn học hiện đại Trung Quốc, cuốn sách của tác giả không khỏi sơ lược về phần văn học mà nặng về bối cảnh xã hội, chính trị và các cuộc đấu tranh tư tưởng trong văn nghệ. Trước đó, trên báo Thanh Nghị Đặng Thai Mai cũng đã phiên dịch truyện AQ chính truyện và nghiên cứu về Lỗ Tấn khá toàn diện, từ cuộc đời, nhân cách, truyện ngắn và tạp văn, Lỗ Tấn gương tranh đấu. Ông cũng đã phiên dịch, giới thiệu, phân tích kĩ lưỡng ba vở kịch nổi tiếng của Tào Ngu là Lôi Vũ, Nhật Xuất và Người Bắc Kinh. Ông cũng nhiệt tình giới thiệu các cuộc đấu tranh tư tưởng mà ông gọi là “đấu tranh tư tưởng học thuật Trung Hoa gần đây” (1955), thực chất là cuộc đấu tranh chính trị chống phái hữu ở Trung Quốc. Trong bối cảnh chính trị lúc bấy giờ chúng ta lấy Liên Xô, Trung Quốc làm gương, nhất nhất lắng nghe ý kiến của các “chuyên gia” Liên Xô và Trung Quốc, cho nên, cũng dễ hiểu là về quan điểm học thuật Đặng Thai Mai dấu ấn lệ thuộc vào các quan điểm của Trung Quốc chính thống đương thời khá rõ. Điều này bộc lộ khi ông biểu dương việc nhà viết kịch Tào Ngu phải sửa chữa hai vở kịch Lôi vũ va Nhật xuất để khắc phục quan điểm tư sản.[ix] Trong bài Hồ Thích, từ tư tưởng mại bản đến chỗ phản quốc cũng thế.
Trong tư tưởng học thuật của giáo sư Đặng Thai Mai cũng có những điều ngày nay cần được nêu lại. Chẳng hạn thứ nhất, ông cho rằng bộ phận văn học chữ Hán trong văn học Việt Nam, do viết bằng chữ Hán, cho nên thuộc văn học Trung Quốc, không thuộc văn học Việt Nam. Tư tưởng này thể hiện trong bài báo phê bình cuốn Việt Nam cổ văn học sử của ông Nguyễn Đổng Chi. Ông viết: “không nên quên rằng nếu như ngày nay, môt người An Nam viết văn Tầu thì áng văn ấy là phải liệt vào văn học Trung Quốc. Thì bao nhiêu tác phẩm của người An Nam ngày xưa, viết bằng chữ Tầu cũng phải liệt vào văn học Tầu.”[x] Trong bài Văn học bình dân và văn hoc cao cấp (viết năm 1948) ông lại viết : “Những thứ văn chương chữ Hán của người Việt, hãy chưa nói đến giá trị nội dung của nó làm gì, nếu chỉ xét về phần tư liệu (tức chất liệu – TĐS) chính thức, thì quyết nhiên không phải là văn học Việt Nam”. Từ nhận thức đó ông khẳng định “xưa kia chúng ta chưa hề có một nền văn học cao cấp”[xi]và đi đến đánh giá rất thấp giá trị văn học Việt Nam : “Chúng ta chưa hề có một nền văn học cao cấp, chưa hề có một tác phẩm nào có thể nói là có giá trị quốc tê.”[xii] Hóa ra người viết cuốn Văn học khái luận năm nào chưa có nhận thức đầy đủ về văn học Việt Nam, có thể quan niệm về văn học giai cấp đã che mắt ông. Nhưng cái nhận thức có vẻ như hư vô chủ nghĩa ấy là một vấn đề cần được tìm hiểu hơn nữa. Hẳn giáo sư biết Hịch tướng sĩ, Đại cáo bình Ngô, Truyện Kiều. Bài Hịch và bài Cáo là văn học phong kiến, của giiai cấp bóc lột, còn Truyện Kiều, có thể giáo sư hiểu theo Cụ nghè Ngô Đức Kế? Ở các bậc danh gia đôi khi cũng có những điều khó hiểu.
Thứ hai, ông đồng nhất văn nghệ với tuyên truyền. Cần phải nói ngay rằng vấn đề văn học tuyên truyền là yêu cầu bức thiết của thời kì kháng chiến chống ngoại xâm. Văn học không thể không tuyên truyền cho cuộc kháng chiến của dân tộc. Không một nghệ sĩ Việt Nam chân chính nào từ chối công việc ấy. Nhưng giáo sư do thiếu quan niệm về đặc trưng văn học nghệ thuật, lại cứ muốn giải quyết bằng lí thuyết về bản chất của nghệ thuật và lịch sử nghệ thuật. Ông cũng như đồng chí Trường Chinh muốn rằng toàn bộ văn nghệ đều tuyên truyền. Ông Tô Ngọc Vân trong bài Tranh tuyên truyền và hội họa (Tạp chí Tự do, tháng 7-1947) phân biệt tranh tuyên truyền và hội họa. Theo ông Tô, tuyên truyền là biểu lộ một chủ trương, dụng ý chính trị cho đông đảo dân chúng hiểu, gây ở họ một thái độ chính trị, nó đòi hỏi rõ ràng, minh bạch, dễ hiểu, có tính chất nhất thời và không đòi hỏi cá tính của nghệ sĩ. Hội họa phải biểu hiện một tâm hồn cá nhân, một thái độ của con người đối với sự vật, không đòi hỏi rõ ràng, nhưng đòi hỏi phải có hứng thú cá nhân, nó có tính cách vĩnh viễn. Ông đã phân biệt tuyên truyền và nghệ thuật ở phương diện đoàn thể và cá nhân. Và bài báo đáp lại của Đặng Thai Mai cũng rất uyên bác và hùng hồn, thú vị. Chỉ tiếc là ông chỉ chứng minh sự đồng nhất giữa tuyên truyền và nghệ thuật, mà không hề nói đến sự khác biệt của chúng, trong khi ông Tô Ngọc Vân muốn nói đến chỗ khác biệt. Thực tiễn nghệ thuật của mấy chục năm qua cũng cho thấy đã có nhiều tác phẩm vừa tuyên truyền vừa hội họa như tranh của các danh họa hiện đại Việt Nam, hay vừa tuyên truyền vừa văn học đã ra đời, như thơ Tố Hữu hay tùy bút của Nguyễn Tuân chẳng hạn. Sự đồng nhất ấy đã thể hiện trong các yêu cầu của tuyên truyền như loại đề tài, yêu cầu tính đảng, phương pháp sang tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, kết quả là văn học nghệ thuật ta không tránh khỏi sơ lược, nghèo nàn, tính chân thật bị giới hạn, cá tính sáng tạo không được phát huy đầy đủ. Ấy lá do chưa thấy sự khác biệt giữa nghệ thuật và tuyên truyền. Ngày nay trong các văn kiện không thấy nói văn nghệ phải tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng như hồi đầu kháng chiến chống Pháp nữa, bởi vì chúng ta đã vượt qua giai đoạn ấy. Và nhận thức sự khác nhau của sáng tạo nghệ thuật và tuyên truyền.
Điểm thứ ba xin lưu ý về biểu đạt. Trong các công trình đầu tiên như Văn học khái luận, bên cạnh những chỗ văn hay, khúc chiết, hóm hỉnh, thì việc biểu đạt vẫn có phần hạn chế do thiếu trong sáng, lạm dụng nhiều từ Hán Việt. Ví dụ ông không nói chủ trương mà nói “chủ trì”, không nói nêu vấn đề mà nói “đề khởi” vấn đề, không nói quan điểm rõ ràng mà nói quan điểm “thanh sở”, không nói kế thừa mà nói “tiếp tục”, không nói liên hệ mà nói “liên lạc”, không nói chất liệu mà nói “tư liệu”, không nói trói buộc mà nói “thúc phọc”, không nói hiểu lầm mà nói “ngộ hội”, không nói tính dân tộc mà nói “dân tộc tính”, không nói “chỗ sai lầm lớn trong cách nhìn”, mà nói “ngộ điểm to trong khán pháp”, cũng như sau này ông thich nói “Ngục trung nhất kí” hơn là nói Nhật kí trong tù…Hình như giáo sư thích tư duy trực tiếp bằng bằng chữ Tầu hơn tiếng ta. Tôi đã đọc các áng văn dịch của giáo sư như tiểu thuyết Chiếc đồng hồ của Panteleev và AQ chính truyện của Lỗ Tấn, văn rất linh hoạt, hấp dẫn. Nêu các ví dụ trên đây để thấy sự gian lao mà những người đi trước đã vật lộn để xây dựng văn phong lí luận như ngày nay.
Điểm cuối cùng, thứ tư, tôi lấy làm tiếc là cuốn Đặng Thai Mai toàn tập gồm 2 tập in vào dịp kỉ niệm 20 năm ngày mất của giáo sư đã in rất tồi tệ, thiếu sự biên tập tối thiểu, chưa nói đến sự thấu đáo. Tên các tiểu mục in chữ to giống như tên đề bài, có khi hết một mục thì qua trang khác, nhưng có khi bài mới in liền sau một mục của bài trước, rất lộn xộn, gây lẫn lộn. Nhiều lỗi morat không được sửa, ví như áng văn thì in thành ứng văn, bát cổ thì in thành hát cổ, Chư Tử thì in là Chủ Tử…. Có chỗ dịch không sát mà không sửa. Ví như câu đầu tiên trong Luận ngữ “Học nhi thời tập chi” mà dịch thành “học và dùng thì giờ để mà “tập” – làm việc”(tr. 49). Tập không phải là làm việc. Đó là nhầm lẫn nhất thời mà người biên tập cần phải sửa để có một văn bản chính xác. Không ai hoài nghi trình độ bậc thầy về Hán học của giáo sư. Tôi nghĩ Toàn tập của Đặng Thai Mai phải bao gồm cả các áng văn dịch như AQ chính truyện, bản dịch kịch Lôi Vũ, Nhật xuất, cả truyện thiếu nhi Chiếc đồng hồ, và phải chỉnh lí phần nào về văn phong, bởi đây là sách của một nhà thuộc hang kinh điển một thời và phải được in trang trọng, có chú thích của người biên soạn dưới các từ mới lạ, có nhiều ảnh ghi lại hoạt động lịch sử của nhà văn. Nhân dịp 30 năm mất của giáo sư, tôi mong muốn được thấy một Toàn tập Đặng Thai Mai đầy đủ, hoàn chỉnh với nghĩa toàn tập, được biên tập công phu, xứng với tầm vóc của tác gia Đặng Thai Mai. Hậu thế người ta chỉ đọc có văn bản, suy nghĩ trên văn bản.
Đặng Thai Mai là học giả lỗi lạc, là chiến sĩ lí luận văn học của Đảng, của nền văn học cách mạng. Ông là người tiên phong biên soạn bộ lí luận văn học đầu tiên và cũng là lí luận văn học mác xít. Nhưng lí luận mác xít Việt Nam là một phạm trù lịch sử. Trong tiến trình xây dựng lí luận văn học Việt Nam hiện đại di sản của giáo sư là một cội nguồn quý báu không thể thiếu để chúng ta tiếp tục đi tới.
Hà Nội, ngày 7 – 8 – 2014
Trần Đình Sử
Chú thích:
[i] Trương Chính. Đặng Thai Mai – Một đời chiến sĩ, một đời văn. In trong Đặng Thai Mai toàn tập, tập 1, tr. 14
[ii] Đặng Thai Mai. Học thuật và hành động, Đặng Thai Mai toàn tập, tập 1, nxb Văn học, 2004
[iii] Đặng Thai Mai toàn tập, tập 1, tr. 132.
[iv] Văn hoc khái luận, Đặng Thai Mai toàn tập, tập 1, tr. 130.
[v] Thanh Lãng, trong sách Phê bình văn học thế hệ 1932, Phong trào văn hóa xuất bản, Sài Gòn, 1972, tập 1, cho biết, hai ông Nguyễn Hưng Phấn, trong bài Tìm nghĩa văn học và ông Đặng Thai Mai trong Văn học khái luận đều hiểu văn học là bao gồm tất cả mọi công trình suy tư được thực hiện bằng chữ viết, bởi vậy nó bao gồm lịch sử, triết học, khảo luận, phê bình, tiểu thuyết, thi ca, kịch nghệ, …, tr. 57.
[vi] Xuất xứ như trên, tr. 247.
[vii] Tố Hữu. Xây dựng một nền văn nghệ lớn, xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta. Nxb. Văn học, Hà Nội, 1973, tr. 71.
[viii] Tiền Lí Quần. Nhìn lại và xây dựng lại. Nxb Giáo dục Thượng Hải, 2000, tr. 71, trung văn
[ix] Ví dụ vỡ kịch Lôi Vũ do quá dài, và chủ yếu là do nặng về bi kịch định mệnh, bi kịch loạn luân theo quan điểm tư sản, sau khi bị phê bình ông đã bỏ hẳn màn đầu và màn vĩ thanh, sửa, cắt bỏ các câu thoại để thể hiện tinh thầ phản đề, phản phng, chông tư sản mại bản. Sau kết thúc cách mạng văn hóa, Tào Ngu tuyên bố lấy lại toàn bộ vỡ kịch như cú, bỏ vở kịch đã chỉnh lí.
[x] Xuất xứ như trên, tr. 140.
[xi] Xuất xứ như trên, tr. 312.
[xii] Xuất xứ như trên, tr. 311.