Định đô, lập nước là một trong những việc quan trọng nhất của một quốc gia. Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, thủ đô của nước Việt đã thay đổi nhiều lần: Phong Châu (Việt Trì – Phú Thọ), Cổ Loa (Đông Anh – Hà Nội), Tây Đô (Thanh Hóa), Phú Xuân (Huế), Hoa Lư (Trường Yên – Ninh Bình) và cuối cùng là Đại La (Thăng Long – Hà Nội) trở thành niềm tự hào của người dân đất Việt. Với khát vọng xây dựng một đất nước Đại Việt hùng mạnh và bền vững muôn đời, sau khi được triều thần suy tôn làm vua, Lý Công Uẩn đã đổi tên nước từ Đại Cồ Việt thành Đại Việt, đặt niên hiệu là Thuận thiên (thuận theo ý trời) và quyết định dời kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La. Trước khi dời đô, vua ban “Thiên đô chiếu” cho thần dân được biết. Bài “Chiếu dời đô” không chỉ có ý nghĩa lịch sử mà còn giá trị văn chương sâu sắc. Bài học hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu.
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
– Lý Công Uẩn (974 – 1028), quê huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
– Thở nhỏ, nổi tiếng là thông minh, khôi ngô, rắn rỏi, được thiền sư Vạn Hạnh ra công dạy dỗ, lo toan cho lên nghiệp lớn.
– 10/1009 Lê Long Đĩnh băng hà, ông được giới tăng lữ và triều thần tôn làm vua, lấy niên hiệu là Thuận thiên, lập nên triều Lý phát triển toàn diện cho dân tộc và quốc gia phong kiến độc lập.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh ra đời:
Bản chiếu được ban ra vào năm Canh Tuất niên hiệu Thuận thiên thứ nhất. Năm 1010, ngay sau khi Lý Công Uẩn được tôn lên làm vua. “Chiếu dời đô” được viết để bày tỏ ý định của Lý Công Uẩn muốn dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La.
b. Thể loại: Chiếu
– Chiếu: còn gọi là chiếu chỉ, chiếu ban, chiếu thư, chiếu mệnh.
+ Mục đích: Là thể văn do vua ban để ban bố mệnh lệnh.
+ Nội dung: Chiếu thường thể hiện một tư tưởng lớn ảnh hưởng đến cả triều đại, đất nước.
+ Hình thức: Văn xuôi, văn vần, hoặc văn biền ngẫu.
– Chiếu dời đô:
+ Hình thức: Văn xuôi xen biền ngẫu
+ Ngoài tính chất mệnh lệnh dùng ngôn ngữ đơn thoại còn có tính chất tâm tình, dùng ngôn ngữ đối thoại.
c. Bố cục: 3 phần
– Phần 1: Từ đầu… không thể không dời đổi: Lý do dời đô
– Phần 2: Tiếp … muôn đời: Lý do chọn Đại La làm kinh đô
– Phần 3: Còn lại: Ban lệnh dời đô
Nội dung bài viết
II. Tìm hiểu văn bản
1. Lý do dời đô
a. Cơ sở lịch sử:
Trước hết tác giả nêu lên những dẫn chứng, những cơ sở để làm tiền đề cho việc dời đô của mình. Từ cổ chí kim việc dời đô là một việc làm thường xuyên của các nhà vua, cốt là để tìm cho được một chỗ phong thủy hợp cho sự phát triển của đất nước, góp phần hưng thịnh đất nước. Lí Công Uẩn đã dẫn ra hàng loạt sự dời đô của những vị vua bên Trung Quốc trước đó.
+ Nhà Thương: 5 lần dời đô.
+ Nhà Chu: cũng 3 lần dời đô.
=> Người Việt thời trung đại chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa, tư tưởng, giáo lý Trung Hoa, coi văn hóa, tư tưởng ấy là mẫu mực đáng làm gương để tăng tính thuyết phục.
– Mục đích:
+ Phải đâu các vua thời Tam đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời?
+ Muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu.
+ Trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân nếu thấy thuận tiện thì thay đổi.
– Kết quả: vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh.
– Dẫn chứng cụ thể, có thật; phương pháp lập luận thì chặt chẽ: theo suy luận tương phản và nhân quả; câu văn biền ngẫu tạo nhịp điệu nhịp nhàng, cân đối dời đô là một tất yếu khách quan trong lịch sử từng mang lại kết quả tốt đẹp.
– Ý định dời đô của Lí Công Uẩn bắt nguồn từ thực tế lịch sử đồng thời thể hiện ý chí mãnh liệt của nhà vua cũng như của dân tộc ta hồi đó. Nhà vua muốn xây dựng và phát triển Đại Việt thành một quốc gia hùng mạnh trong tương lai.
b. Cơ sở thực tiễn
– Tiếp theo tác giả phân tích nhưng thực tế cho thấy kinh đô cũ không còn thích hợp với sự mở mang của đất nước nữa cho nền cần thiết phải dời đô và không ngần ngại phê phán những triều đại cũ:
– Dẫn chứng: Hai triều đại Đinh, Lê theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu cứ đóng yên đô thành nơi đây.
+ Triều Đinh tồn tại được 11 năm (968 – 979).
+ Triều Tiền Lê tồn tại được 30 năm (979 – 1009).
– Hậu quả: Khiến triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi.
– Tác giả bộc lộ cảm xúc: Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đô. => Cảm xúc kết hợp với lý lẽ để tăng sức thuyết phục.
=> Bên cạnh những dẫn chứng thuyết phục như thế tác giả còn thể hiện giãi bày tình cảm của mình. Điều đó đã làm tăng thêm sức thuyết phục cho bài văn. Cảm xúc ấy chính là cảm xúc mà tác giả muốn phát triển đất nước theo một hướng phát triển thịnh vượng hơn, lâu dài và bền vững hơn.
– Phê phán hai triều đại Đinh, Lê trong việc định đô ở Hoa Lư; cùng những khó khăn trong việc đóng đô và gián tiếp khẳng định sự cần thiết phải dời đô khỏi Hoa Lư của nhà vua:
+ Nhưng thực chất thì ở giai đoạn đó hai triều đại chưa đủ mạnh cả thế và lực để tiến hành việc rời đô vùng đồng bằng trống trải nên vẫn phải dựa vào địa thế hiểm trở của rừng núi để chống thù trong, giặc ngoài. Nhưng đến thời Lí, trên đà mở mang phát triển của đất nước thì việc đóng đô ở Hoa Lư không còn phù hợp nữa.
+ Dời đô từ nơi có núi non hiểm trở (thích hợp cho việc phòng thủ và chiến đấu) xuống vùng đồng bằng rộng lớn (khả năng phòng thủ thấp) chứng tỏ dân tộc đã có nội lực phát triển vững vàng, triều đại mạnh mẽ. Cho nên đây là biểu hiện của một khát vọng tự lực, tự cường, quyết tâm dựng nước đi liền với việc giữ nước hết sức cháy bỏng, mãnh liệt của dân tộc Đại Việt.
=> Vậy nên trái với khách quan thì sẽ bị tiêu vong, không đi theo quy luật thì sẽ không có kết quả tốt. Tóm lại kinh đô Đại Việt không thể phát triển được trong một quốc gia chật hẹp như thế.
2. Lý do chọn Đại La làm kinh đô
Đại La là một nơi có tất cả các điều kiện để phát triển đất nước:
+ Ở vào nơi trung tâm trời đất; đúng ngôi năm bắc đông tây => Nơi hội tụ tinh hoa
+ Thế rồng cuộn hổ ngồi, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi => Thế đất hiểm yếu
+ Địa thế rộng mà bằng, cao mà thoáng => Thế đất tiềm năng phát triển.
+ Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi => đất lành, thiên nhiên ưu đãi.
+ Là đầu mối giao lưu: “chốn hội tụ của bốn phương”.
+ Là mảnh đất hưng thịnh: “muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi”.
– Đại La hiện lên đẹp về mọi mặt như địa lý, văn hóa, đầu mối giao lưu, điều kiện của dân cư và sự phong phú, tốt tươi của cảnh vật. Tác giả đã nhìn từ góc nhìn của một nhà phong thủy, cho thấy tất cả những điều kiện tốt đẹp của thiên nhiên cũng như con người nơi đây.
– Xét toàn diện, thành Đại La có đủ điều kiện tối ưu để trở thành kinh đô mới của Đại Việt. Chứng cớ nhà vua đưa ra có sức thuyết phục rất lớn vì được cân nhắc kĩ càng trên nhiều lĩnh vực.
=> Tác giả khẳng định ưu thế mọi mặt của Đại La, đây là nơi xứng đáng nhất để định đô của nước Đại Việt.
3. Ban lệnh dời đô
– Kết thúc bài chiếu Lí Công Uẩn không dùng sức mạnh uy quyền để quyết định rời đô mà dùng một giọng như tham khảo ý kiến của nhân dân, bề tôi trung tín “Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?”.
– Nhà vua hoàn toàn có thể lệnh cho bầy tôi thi hành. Nhưng ông là nhà vua dân chủ, tạo ra sự đồng cảm, dân chủ nhất định giữa vua và thần dân. Độc thoại trở thành đối thoại, ý nguyện của nhà vua trở thành ý nguyện của trăm họ. Vì chỉ có hợp với lòng dân thì nhà vua cũng như đất nước mới trở nên vững bền được.
=> Như vậy có thể thấy Lí Công Uẩn là một vị vua thông minh, nhân ái hiền từ và rất đỗi hợp lòng dân. Ông không chỉ lấy những thực tế dẫn chứng từ các triều đại trước cũng như sự tốt đẹp của địa hình Đại La mà ông còn đánh vào tình cảm để thuyết phục.
III. Tổng kết
1. Nội dung:
– Chiếu dời đô thể hiện khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh.
– Lý Công Uẩn là một vị vua yêu nước và có tầm nhìn xa trông rộng.
2. Nghệ thuật:
– Hệ thống lập luận chặt chẽ.
– Ngôn ngữ mang tính chất đối thoại.
– Kết hợp hài hòa giữa lý và tình.