Hôi tanh, chẳng thú vị gì,
Thế mà ai cũng kẻ vì, người yêu!
Tạo vật bất thị vô để sự(1),
Bòn chài ra một thứ quấy chơi.
Đủ vuông tròn tượng Đất, tượng Trời(2),
Khẳm hoạ phúc, nguy yên, tử hoạt(3).
Chốn kim môn, nơi tử thát(4),
Mặc phao tuồng, không kẻ phòng nhàn(5).
Đương om sòm chớp giật, sấm ran,
Nghe xốc xách, lại gió hoà mưa ngọt.
Kẻ tài bộ đã vào phương vận đạt,
Không ngươi, cùng ải với cỏ cây.
Người yêm yêm(6) đành một phận trầm mai(7),
Có gã, lại trổ ra sừng gạc.
Dốc đáy túi, mặt Nguyễn Lang(8) ngơ ngác,
Trổng đầu giường(9), gan tráng sĩ làu bàu.
Để đoàn ấm á(10) càu nhàu,
Khiến lũ tài danh vơ vẩn.
Khả quái tầm thường a đổ vật,
Khước giao đáo để đại thần linh(11).
Đương đồ ai chẳng chuộng gia huynh(12),
Thù thế(13), kể lấy làm đệ nhất.
Tiếng xỏng xảnh(14) đầy trong trời đất,
Thần cũng thông(15), huống nữa là ai?
Long đồ(16) nghĩ cũng nực cười!
Nguồn: Nguyễn Công Trứ cuộc đời và thơ do Đoàn Tử Huyến chủ biên, NXB Lao động, 2011
* Chú thích:
(1) Ông trời không phải là không có việc (mà lại bòn nhặt ra để quấy nhiễu chơi).
(2) Đồng tiền ngày xưa ngoài vành tròn (tượng trời) trong lỗ vuông (hình đất).
(3) Khẳm: đầy đủ. Nguy yên tử hoạt: Yên nguy sống chết, ý nói đồng tiền có thể làm cho người ta yên hay nguy, sống hay chết.
(4) Kim môn, tử thát: cửa vàng cổng tía, chỉ nhà cửa những bậc quyền quý.
(5) Phòng nhàn: ngăn ngừa.
(6) Yêm yêm: lặng lẽ.
(7) Trầm mai: chìm lấp, chôn vùi.
(8) Lấy từ tích Nguyễn Phu đời nhà Tấn mang một cái túi đi chơi đất Cối Kê nhưng trong túi chỉ có một đồng tiền.
(9) Lấy ý cổ thi: Sàng đầu kim tận, tráng sĩ vô nhan, nghĩa là: Đầu giường hết tiền, tráng sĩ không còn mặt mũi nào.
(10) Ấm á: câm ngọng; ý nói vì không tiền nên những đứa câm ngọng cũng càu nhàu với mình được.
(11) Quái lạ cho cái vật ấy tầm thường
Mà thành ra ông thần thiêng đáo để.
Tích cũ: Đời nhà Tấn có Vương Di Phủ làm quan rất thanh liêm, suốt đời không bao giờ nói đến tiền. Một hôm nhân ông ngủ, vợ là Quách Thị sau người đem tiền xếp đầy chung quanh giường để xem lúc dậy Vương có phải nói đến tiền không. Thức dậy, ông gọi người nhà bảo, sao không cất cái vật ấy đi, chứ không hề nói đến tiếng tiền. Đời sau những người khinh tiền bắt chước cũng gọi tiền là “a đồ vật”, nghĩa là “cái vật ấy”.
(12) Đương đồ: đương làm quan; gia huynh: ông anh. Lấy ý từ bài Tiền thần luận: “Lạc trung chu y, đương đồ Học sĩ, kiến ngã gia huynh, bất cảm ngưỡng thị”, nghĩa là: Những người áo đỏ đất Lạc Trung, quan Học sĩ đương triều, thấy ông anh của ta (tiền) không dám ngửa trông.
(13) Thù thế: thù ứng với đời.
(14) Xỏng xảnh: tiếng tiền đồng va vào nhau, ý nới lúc nào túi cũng có nhiều tiền.
(15) Thần cũng thông: tích kể Trương Diên Thưởng làm quan xử án rất công minh. Có một người can tội nặng gửi Trương một lá thiếp xin lấy 3 vạn quan tiền để chuộc tội. Trương vứt thiếp đi rồi sai truy xét cho minh bạch. Hôm sau lại có thiếp gửi đến, xin lấy 10 vạn quan tiền chuộc tội. Trương bảo thôi không tra án ấy nữa. Mọi người hỏi, Trương nói: “Tiền chí thập vạn, khả dĩ thông thần” (Tiền đến mười vạn, có thể thấu đến thần minh).
(16) Long đồ: tức Bao Chửng, còn gọi là Bao Công, vị quan ở đời Tống làm chức Long đồ các Học sĩ, xử án rất công minh. Câu này ý nói đến Bao Công nghe đến chuyện tiền cũng phải nực cười.