Nội dung bài viết
1. MỞ
Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc kết thúc năm 1975, đất nước thống nhất, độc lập, tự do, đáp ứng khát vọng ngàn đời của những người con dân Việt Nam mang dòng máu Lạc Hồng, nhưng đồng thời cũng mang đến những hệ lụy về kinh tế, xã hội, văn hóa, đòi hỏi mỗi người chúng ta phải trăn trở nghĩ suy, tìm hướng đi tích cực nhất, nhân bản nhất, dân tộc nhất trên hành trình khẳng định sự tồn sinh và hòa nhập với nhân loại mà trong những năm tháng chiến tranh, chúng ta chưa hoặc không kịp nghĩ đến.
Công cuộc đổi mới đất nước trải qua gần 40 năm đã hiện thực hóa quyết tâm mà cố Tổng Bí thư Trường Chinh xác quyết “Đổi mới hay là chết” đã hóa giải nhiều vấn đề, nhiều bình diện của đời sống xã hội, nhiều lúc tưởng chừng như rơi vào bế tắc. Sự nghiệp đổi mới đã đem lại cho đất nước những thành tựu trên nhiều lĩnh vực, trong đó có văn học mà lý luận, phê bình là một trong những thành tựu cần được ghi nhận. Song, để có những thành tựu trong đời sống văn học mà lý luận, phê bình là một phần không thể tách rời, từ sau 1975 đến nay, nền văn học chúng ta đã không ngừng vận động phát triển, và trong quá trình vận động đó, không phải không gặp những lực cản trong việc xác lập quan niệm về chân ái, về mỹ cảm văn chương, về đổi mới tư duy lý luận phê bình. Rất may, dù còn có những trở ngại nhưng quy luật tất yếu của sự phát triển đã được thắp lên từ “ngọn lửa” đổi mới mà Đảng đã lựa chọn như một ý thức hiện sinh là căn tố giúp cho văn học, trong đó có lý luận, phê bình đạt nhiều thành tựu và mở ra những triển vọng phát triển khi đất nước bước vào kỷ nguyên của độc lập, tự do, hiện đại đáp ứng xu hướng hòa nhập toàn cầu.
2. LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH VĂN HỌC SAU 1975 – MỘT CÁI NHÌN TỔNG QUÁT
2.1. Thời kỳ 1975 – 1985: Những dự cảm đổi mới tư duy lý luận, phê bình
Từ sau ngày nước nhà thống nhất 30/4/1975 đến trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, đất nước vẫn còn nằm trong khí quyển của thời kỳ quan liêu bao cấp của nền kinh tế kế hoạch nên gặp rất nhiều khó khăn, nhất là khó khăn về kinh tế, từ đó dẫn đến nhiều hệ lụy trong đời sống xã hội, văn hóa. Tư duy lãnh đạo đất nước của thời chiến vẫn là quán tính ám ảnh việc quản trị đất nước trong thời kỳ hòa bình – hậu chiến. Không những thế, niềm vui chiến thắng quá lớn khiến chúng ta tự mãn, tự tôn, không mở cửa tiếp nhận những giá trị tinh hoa mang tính phổ quát của nhân loại trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và đây là nguyên nhân tạo nên sự trì trệ làm chậm quá trình phát triển của đất nước trên nhiều bình diện, trong đó có văn học.
Sống trong bầu khí quyển ấy, lĩnh vực văn nghệ vẫn tiếp tục phương thức quản lý theo lối cũ, không mạnh dạn đổi mới tư duy, tiếp nhận những hệ hình lý thuyết hiện đại của nhân loại, làm cho đời sống văn học, trong đó có lý luận, phê bình chậm đổi mới, thậm chí còn lạc hậu, không phù hợp với tiến trình vận động và phát triển của văn học thế giới. Tuy nhiên từ trong những khoảng mờ đã hé lộ những vệt sáng dự cảm trong việc khai mở tư duy lý luận, phê bình để chuẩn bị cho một sự đổi mới mạnh mẽ sau này của đời sống văn học, trong đó có lĩnh vực lý luận, phê bình mà những suy niệm của một số văn nghệ sĩ mà nhà văn – chiến sĩ Nguyễn Minh Châu là một điển hình cho những dự cảm của lối tư duy mới về sáng tạo văn chương, thể hiện qua các bài viết của ông xuất hiện trong thời kỳ tiền đổi mới trên các báo, tạp chí như Nhân dân, Văn nghệ, Văn nghệ Quân đội… được tập hợp lại trong tác phẩm Trang giấy trước đèn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002.
Với bản lĩnh, tài năng và sự trung thực của một nhà văn, luôn trăn trở, ưu lo trước số phận đất nước và dân tộc, Nguyễn Minh Châu đã trở thành một trong những chiến sĩ tiên phong, góp phần cho việc khai mở hệ hình tư duy lý luận, phê bình văn học thời kỳ đổi mới, với một cái nhìn đa diện, đa chiều mang tính đối thoại trên tinh thần dân chủ và khát khao tự do sáng tạo. Đó là sự đổi mới cách nhìn, cách nghĩ, cách thể hiện của nhà văn trong vấn đề viết về chiến tranh, về thân phận con người, về sự trung thực của người cầm bút, về “mối quan hệ giữa văn học và đời sống thực tại”, về “lương tri của truyền thống văn học và lương tri của nhà văn”… được thể hiện không chỉ qua các tiểu luận đặc sắc mà còn được xác chứng qua sáng tác của nhà văn trước và trong thời kỳ đổi mới cho đến lúc ông “lìa xa cõi sống”, nhằm xác lập một hệ giá trị riêng có của Nguyễn Minh Châu như một sự đóng góp của ông vào việc khai mở hệ hình tư duy lý luận, phê bình văn học thời đổi mới.
Có thể nói, hiện thực đa dạng của đời sống bao giờ cũng được Nguyễn Minh Châu soi chiếu qua thân phận con người, không phải đơn thuần qua cảm hứng sử thi mang âm hưởng lạc quan đến ngờ nghệch. Vì vậy, khi nhìn nhận lại những tác phẩm văn học thời kháng chiến, Nguyễn Minh Châu đã nhận thấy: “Các nhân vật thường khi có khuynh hướng được mô tả một chiều, thường là quá tốt, chưa thực. Hình như tất cả những mặt tính cách đa dạng phải phơi bày trong đời sống thực thì lại có thể tạm thời giấu mình trên trang sách. Vì ý thức cổ động kháng chiến một phần, một phần khác có phải do quan niệm sơ lược về nhân vật anh hùng?”[1]. Rồi ông đặt vấn đề: “không biết từ ngàn năm xưa hay bao giờ, người Việt Nam mình mang một quan niệm: Đã phàm cái gì đem chép vào sách vở thì không thể dung tục như đời sống bình thường hàng ngày được mà phải là những điều tốt đẹp, tinh khiết”.[2]
Và từ những trăn trở, những suy niệm này, Nguyễn Minh Châu đặt ra một cách nhìn mới để từ đó tìm ra một cách phản ánh mới đối với người cầm bút mà theo ông: “Những người cầm bút của chúng ta vô cùng cảm thông với dân tộc mình nhưng chẳng lẽ chúng ta có thể làm yên tâm mọi người bằng cách mô tả cái hiện thực ước mơ? Những điều trên chỉ cho thấy: trên con đường đi đến chủ nghĩa hiện thực đôi khi chúng ta phải khai chiến cả với những quan niệm tốt đẹp và lâu dài của chính mình”.[3] Đi tìm nguyên nhân của những phương thức phản ánh sơ lược công thức và đơn giản trên, Nguyễn Minh Châu đã chỉ ra: “Cho đến ngày nay những người viết chúng ta đã tiếp thu được những kinh nghiệm các nền văn học của các nước xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn ấu trĩ, không đến nỗi những người cầm bút vẫn còn nhìn nhận nhân vật anh hùng cách mạng như một siêu nhân, nhưng tại sao các nhân vật của họ rồi cũng như thế?”[4]. Rồi, Nguyễn Minh Châu tự lý giải: “Trách nhiệm ấy không cho phép mỗi người nói đến sự sợ hãi, nỗi lo âu và tính toán cá nhân. Đó chẳng phải là một thói quen trong những năm kháng chiến? Như thế là, một khuynh hướng sơ lược vấn đề văn học đã được đẻ ra từ một thói quen của đời sống”[5]. Và đây cũng là những suy niệm chúng ta có thể tìm thấy trong những bài viết của Hoàng Ngọc Hiến xuất hiện lúc bấy giờ. Vì vậy, khi luận về những dự cảm trong tư duy lý luận, phê bình tiền đổi mới, cùng với Nguyễn Minh Châu, không thể không nói đến Hoàng Ngọc Hiến, nhà lý luận phê bình với tư duy tư biện đặc sắc và độc đáo mà tiểu luận “Về một đặc điểm của văn học và nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua” (Văn nghệ, 4/6/1979) là một xác chứng. Trong tiểu luận này, xuất phát từ thực tiễn của nền văn học nước nhà trong kháng chiến cùng với những luận bàn sâu sắc giàu tính triết mỹ, ông đã khái quát đặc điểm của văn học chúng ta trước 1975, đó là nền văn học mang tính chất của “chủ nghĩa hiện thực phải đạo”. Ý kiến trên của Hoàng Ngọc Hiến, phải chăng là cụ thể hóa, làm rõ hơn ý kiến của Nguyễn Minh Châu trước đó, khi nhà văn cho rằng: “Hình như trong ý niệm sâu xa của người Việt Nam chúng ta, hiện thực của văn học có khi không phải là cái hiện thực đang tồn tại mà là cái hiện thực mọi người đang hy vọng, đang mơ ước. Có lẽ nhân loại ít có dân tộc nào lúc nào cũng canh cánh ước mơ như chúng ta”[6].
Có thể nói, những suy niệm của Nguyễn Minh Châu và Hoàng Ngọc Hiến, không chỉ chia sẻ với nhà văn – những người sáng tác mà đó cũng là những chia sẻ mang tính khai mở, đặt ra với các nhà lý luận, phê bình trong việc đổi mới tư duy khi thẩm định các hiện tượng văn học. Bởi, với sự cảm nhận tinh tế, Nguyễn Minh Châu và Hoàng Ngọc Hiến hiểu rằng, nếu nhà văn đã đổi mới tư duy sáng tạo văn chương mà nhà lý luận, phê bình vẫn cứ thẩm định văn chương theo kiểu “lối cũ ta về” sẽ không phù hợp với hiện thực cuộc sống, làm trì trệ sự phát triển của văn học nước nhà. Thế nên, có thể nói, những suy niệm của Nguyễn Minh Châu và Hoàng Ngọc Hiến qua các bài viết được kết tinh bằng sự nghiệm sinh trong hành trình sống và sáng tạo văn chương của họ là những dự cảm sinh động mang tính khai phóng làm tiền đề cho việc chuyển đổi tư duy lý luận, phê bình văn học sau này trong thời kỳ đổi mới, một nền văn học mà theo Hoàng Ngọc Hiến đó là nền văn học “bước qua lời nguyền”. Và theo chúng tôi, có thể xem đây là một trong những thành tựu cần được ghi nhận của lý luận, phê bình văn học từ sau 1975 ở thời kỳ tiền đổi mới.
2.2. Thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay: Thành tựu và triển vọng
2.2.1. Những tiền đề chính trị xã hội văn hóa
Như đã nói, từ sau 1975, ở các năm đầu thập niên bảy mươi đã có những vệt sáng mang tính dự cảm cho sự đổi mới tư duy lý luận, phê bình mà những suy niệm của nhà văn Nguyễn Minh Châu và Hoàng Ngọc Hiến qua những bài viết của họ là những “cánh chim báo bão” khai mở cho lý luận, phê bình thời kỳ đổi mới. Tiếp sau đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã mở ra cho đất nước một bước ngoặt, tạo nên những biến đổi diệu kỳ, đưa đất nước vươn ra biển lớn ở nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, trong đó có văn học mà bộ phận lý luận, phê bình là một phần không thể tách rời. Song, để có những sự biến chuyển của đất nước trong những ngày đầu tiến hành công cuộc đổi mới, trong đó có văn học, không thể không nói đến sự tác động của công cuộc đổi mới từ Liên Xô và Trung Quốc đối với Việt Nam, trong đó có ảnh hưởng của phong trào “cải tổ” văn nghệ ở Liên Xô lúc bấy giờ. Ngoài những tiền đề mang tính chất chính trị xã hội, còn có một sự tác động khác mang ý nghĩa văn hóa đó là sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông, đặc biệt là các trang mạng xã hội.
Và những tiền đề chính trị xã hội văn hóa nêu trên đã tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có văn học, từ đó mở ra cho lý luận, phê bình những chân trời mới từ việc tiếp nhận hệ hình lý thuyết văn học hiện đại phương Tây mà nếu không có sự mở cửa của thời kỳ đổi mới, khó có thể đem đến sự đổi mới tư duy lý luận, phê bình vốn đã bị trói buộc rất lâu của thời kỳ tiền đổi mới.
Mặc dù đã có những dự cảm, những suy tư của các nhà văn, về việc đổi mới tư duy sáng tạo và lý luận, phê bình văn học, nhưng có thể nói, thời kỳ đổi mới của văn nghệ thực sự chỉ bắt đầu từ sau cuộc gặp gỡ văn nghệ sĩ của cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh khi ông đặt yêu cầu cần “cởi trói” cho văn nghệ trong hành trình sáng tạo. Và điều này đã được định hướng cụ thể trong các nghị quyết của Đảng như Nghị quyết 05-/NQ/TW của Bộ Chính trị về Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới công bố năm 1987 cùng với Chỉ thị số 82/CT/TW ngày 5/4/1986 của Ban Bí thư về công tác tư tưởng; Chỉ thị 52/ CT/TW ngày (8/6/1989) của Ban Bí thư về đổi mới nâng cao chất lượng phê bình văn học nghệ thuật, và nhiều nghị quyết chuyên đề về văn hóa văn nghệ sau này như Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nghị quyết số 23 (16/6/2008) của Bộ Chính trị về Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới… cùng với các nghị quyết này là những chính sách của Đảng, Nhà nước đầu tư cho sự phát triển văn học nghệ thuật thời kỳ đổi mới nên các văn nghệ sĩ, các nhà lý luận, phê bình đã tích cực hơn trong hành trình khám phá và sáng tạo. Đây là những dấu ấn quan trọng thể hiện sự đổi mới tư duy trong đường lối lãnh đạo văn nghệ của Đảng, là động lực thúc đẩy tiến trình đổi mới hoạt động sáng tạo văn học và cũng là căn tố tạo nên những thành tựu cho nền văn học nước nhà nói chung và lý luận, phê bình nói riêng ở một số bình diện sau.
2.2.2. Những thành tựu của lý luận phê bình văn học thời kỳ đổi mới
Có thể nói, lý luận phê bình văn học thời kỳ đổi mới là một dòng chảy được khai thông trên cơ sở của tinh thần khai phóng, cởi mở, đối thoại và dân chủ. Điều này thể hiện rõ ở việc đổi mới tư duy lý luận, phê bình từ trong nhận thức của văn nghệ sĩ, nên có thể xem đây là thành tựu căn bản đặt nền tảng cho tiến trình đổi mới tư duy lý luận, phê bình.
2.2.2.1. Vấn đề đổi mới tư duy sáng tạo văn học và lý luận, phê bình
Có thể nói, từ sau cuộc “trò chuyện” giữa Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với văn nghệ sĩ vào tháng 8 năm 1987, đời sống văn học nước nhà, trong đó có lý luận, phê bình đã bắt đầu khởi sắc. Vấn đề quan niệm về tự do sáng tạo văn nghệ, về chức năng văn học, văn học và vấn đề phản ánh hiện thực, mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị… đã được luận bàn và thẩm định lại với cái nhìn đa diện, đa chiều đã được đăng tải trên báo chí lúc bấy giờ như sự bùng nổ của tâm thức hiện sinh đã bị dồn nén bấy lâu nay. Đó là các bài viết như Khi thực tiễn lên tiếng của Ngô Thảo (Văn nghệ số 27, ngày 4/7/1987); Đổi mới tư duy, khẳng định sự thật trong văn học nghệ thuật của Nguyễn Văn Hạnh (Văn nghệ số 33, ngày 15/8/1987); Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn học minh họa (Văn nghệ số 49+50, ngày 5/12/1987) của Nguyễn Minh Châu; Đại hội nhà văn lần này cần theo đúng tinh thần nhìn thẳng vào sự thật của Xuân Cang (Văn nghệ số 8, ngày 20/2/1988); Suy nghĩ và ước mong của một người đọc của Hoàng Minh (Văn nghệ số 20, ngày 15/5/1988); Đọc văn phải khác đọc sử của Lại Nguyên Ân (Văn nghệ số 29+30, ngày 16/7/1988)…
Việc đổi mới tư duy sáng tạo văn học và lý luận, phê bình không chỉ xuất hiện trên báo chí mà còn được tiến hành trên một số tạp chí trung ương và địa phương qua các cuộc thảo luận và tranh luận về nhiều vấn đề như “mối quan hệ giữa văn học và chính trị” (Cửa Việt); “văn học và vấn đề phản ánh hiện thực” (Sông Hương); về bút ký Cái đêm hôm ấy đêm gì của Phùng Gia Lộc (Văn nghệ)… hay cuộc tranh luận về tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh, Chân dung và đối thoại của Trần Đăng Khoa, Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư, Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Bóng anh hùng của Doãn Dũng… Các cuộc tranh luận này, đã trình hiện một hệ hình tư duy lý luận, phê bình mới, hiện đại, với những điểm nhìn đa chiều, đa diện không chấp nhận lối tư duy phê bình theo kiểu xã hội học dung tục như trước và cũng không độc tôn một hệ hình lý thuyết nào, thay vào đó các nhà lý luận, phê bình đã vận dụng nhiều hệ hình lý thuyết hiện đại phương Tây như thi pháp học, phong cách học, tự sự học, phân tâm học, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc, mỹ học tiếp nhận… làm hệ quy chiếu giải mã các hiện tượng văn học, đem đến cho sáng tác văn học những giá trị mới, đáp ứng kịp thời nhu cầu đối với trường tiếp nhận của công chúng văn học. Bên cạnh đó, nhiều hệ giá trị về lý luận, phê bình vốn khá phổ biến trước thời kỳ đổi mới, được xem như những chuẩn mực để thẩm định tác phẩm văn học thì đến thời kỳ đổi mới đã không còn hoặc rất ít khi được nhắc đến như: tính giai cấp, tính nhân dân, thế giới quan, phương pháp sáng tác, phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa…
Như vậy, trong thời kỳ đổi mới việc chuyển đổi hệ hình tư duy lý luận, phê bình từ việc độc tôn lối phê bình xã hội học, thậm chí xã hội học dung tục để hướng đến việc đa dạng hóa tư duy lý luận, phê bình để tiệm cận hơn với chân lý nghệ thuật và chân lý đời sống, tạo nên một chuẩn giá trị mới với cái nhìn đa diện, đa chiều đã đem đến sự sinh động cho đời sống lý luận, phê bình theo tinh thần cởi mở, đối thoại và dân chủ mà công cuộc đổi mới đất nước của Đảng đã định hướng cho việc đổi mới tư duy về quản lý và thẩm định các giá trị văn nghệ. Đây có thể là một thành tựu quan trọng làm cơ sở để dẫn đến những thành tựu khác trong lĩnh vực lý luận, phê bình mà việc xét và trao giải thưởng cho các tác phẩm văn học và lý luận, phê bình mang tinh thần đổi mới của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991 cho tập tiểu luận Lý luận và văn học của Lê Ngọc Trà, tiểu thuyết Bến không chồng của Dương Hướng, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường là một xác chứng. Và nói như Trần Đình Sử, thành tựu có giá trị và đáng ghi nhận nhất của của lý luận, phê bình thời kỳ đổi mới đó là: “…phê phán các giáo điều lý luận xơ cứng, và làm cho chúng mất thiêng. Đó là một điều kỳ diệu do thời đại ban tặng. Mặc dù sự phê phán ấy cho đến nay vẫn chưa được triển khai đầy đủ và một số nguyên lý vẫn còn được nhắc đến đâu đó, nhưng nhiều người chỉ nhắc tới như một nghi thức, chứ không phải như những niềm tin kích thích sáng tạo thực sự”.[7]
2.2.2.2. Vấn đề nhìn nhận lại một số hiện tượng văn học trong quá khứ
Trên cơ sở vấn đề đổi mới tư duy sáng tạo văn học và lý luận, phê bình, khi những điều cấm kỵ trong việc đánh giá các hiện tượng văn học trước kia không còn đè nặng tâm thức các nhà lý luận, phê bình và trước việc đổi mới đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng, nhiều hiện tượng văn học vốn được xem là những “vùng cấm” trước kia, nay đã được các nhà lý luận, phê bình nhìn nhận một cách công bằng, khách quan, trung thực, khoa học để trả lại giá trị đích thực của các hiện tượng văn học này như phong trào Thơ mới; Tự lực văn đoàn; phong trào Nhân văn Giai phẩm; hiện tượng Vũ Trọng Phụng; văn học miền Nam 1954-1975… hay một số tác phẩm của các nhà văn cách mạng nhưng cũng bị cấm kỵ như Mười năm của Tô Hoài, Vào đời của Hà Minh Tuân, Rẻo cao của Nguyên Ngọc…
* Về phong trào Thơ mới
Ngay trước thềm của thời kỳ đổi mới từ những thập niên Tám mươi, các nhà xuất bản đã cho tái bản hàng loạt tác phẩm của các nhà Thơ mới (1932-1945) như Tuyển tập thơ Thế Lữ, Huy Cận, Xuân Diệu, Tế Hanh, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Anh Thơ, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, đặc biệt là tuyệt tác tiểu luận phê bình Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh Hoài Chân… và cùng với đó là việc chọn một số tác phẩm của các nhà Thơ mới làm ngữ liệu trong sách giáo khoa để giảng dạy trong nhà trường như Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Vội vàng, Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, Tràng giang của Huy Cận, Tương tư của Nguyễn Bính, Chiều xuân của Anh Thơ, Ông đồ của Vũ Đình Liên… đã tạo nên một sinh khí mới cho việc giảng dạy văn học trong nhà trường lúc bấy giờ. Chính vì vậy, Báo Giáo viên nhân dân đã tiên phong làm số đặc biệt năm 1989 với chủ đề Nhìn lại một số hiện tượng văn học với nhiều bài viết “chiêu tuyết” cho các hiện tượng văn học đã bị dập vùi trong quá khứ. Trong các hiện tượng này có phong trào Thơ mới mà nhận định sau đây của nhà thơ Huy cận, người đã trưởng thành từ phong trào Thơ mới là một xác quyết: “Trong lịch sử văn học Việt Nam, phong trào Thơ mới giữ một vị trí quan trọng. Thơ mới đã nằm trong văn mạch của dân tộc như máu thịt trong cơ thể của giống nòi”.[8]
Sau bước mở đầu là sự xuất hiện của hàng loạt công trình nhìn nhận lại giá trị của phong trào Thơ mới, trong đó có những bài viết những công trình nghiên cứu hoàn toàn phủ nhận lại những ý kiến của chính họ trước kia về Thơ mới như Hàn Mặc Tử – tác phẩm phê bình và tưởng niệm (2002) của Phan Cự Đệ, khi ông tự nhận “Đã yêu thơ Hàn Mặc Tử từ những ngày còn ngồi trên ghế nhà trường trung học. Tình cảm mến yêu dành riêng cho Hàn Mặc Tử cứ đậm đà mãi lên trong mấy chục năm giảng dạy văn thơ lãng mạn ở các trường đại học”.[9] Đó là tác phẩm Thơ mới và những bước thăng trầm (1993) và Vấn đề chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam (1998) của Lê Đình Kỵ; Ba đỉnh cao Thơ mới (2003) của Chu Văn Sơn; Giảng văn, văn học Việt Nam 1930-1945, tập 1, Văn học lãng mạn (1991) của Văn Tâm… Tiếp sau đó là nhiều hội thảo khoa học về Thơ mới nhưng có thể nói Hội thảo khoa học Nhìn lại Thơ mới và văn xuôi Tự lực văn đoàn do Hội Nghiên cứu và Giảng dạy văn học, Trường Đại học Sư phạm, Khoa Văn học và Ngôn ngữ Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn đều ở Tp. Hồ Chí Minh và Tạp chí Thế giới mới đồng tổ chức tại Tp. Hồ Chí Minh, 2013 là hội thảo có ý nghĩa tổng kết về những giá trị cũng như đóng góp của phong trào Thơ mới và Tự lực văn đoàn nhằm xác lập vị thế của các hiện tượng văn học này trong tiến trình vận động của văn học nước nhà.
* Về Tự lực văn đoàn
Cùng với phong trào Thơ mới, Tự lực văn đoàn cũng là một hiện tượng văn học thuộc trào lưu văn học lãng mạn (1932 – 1945) được phục hưng, qua việc tái bản các tác phẩm văn chương Tự lực văn đoàn như: Đoạn tuyệt của Nhất Linh, Gánh hàng hoa (Nhất Linh – Khái Hưng); Đôi bạn, Bướm trắng, Hai buổi chiều vàng, Đời mưa gió (Nhất Linh – Khái Hưng); Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Trống mái, Tiêu Sơn tráng sĩ, Thoát ly, Thừa tự, Đẹp, Hạnh… của Khái Hưng; Gió lạnh đầu mùa, Nắng trong vườn, Sợi tóc, Ngày mới, Hà Nội băm sáu phố phường, Theo dòng… của Thạch Lam; Con đường sáng, Mười điều tâm niệm của Hoàng Đạo… Và cùng với sự xuất hiện của các tác phẩm Tự lực văn đoàn được công chúng đón nhận một cách nồng nhiệt là sự xuất hiện của một số công trình nghiên cứu về Tự lực văn đoàn với một cách nhìn mới, một cách đánh giá mới, luận giải mới như: Tự lực văn đoàn – trào lưu – tác giả (2017) của Hà Minh Đức; Khái Hưng – nhà tiểu thuyết (1993), Thạch Lam – thân thế và sự nghiệp (1994), Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hóa văn học (1995), Hoàng Đạo – nhà báo, nhà văn (1996), Thế Lữ – một khách tình si (2009) của Vu Gia….
Một số sự kiện quan trọng cho thấy sự nhìn nhận lại một cách chân xác về trào lưu Tự lực văn đoàn trong buổi đầu của thời kỳ đổi mới đó là Hội thảo khoa học do Khoa Văn học Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội phối hợp với Nxb. Đại học tổ chức ngày 27/5/1989 thu hút được khá nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận phê bình văn học như Huy Cận, Tế Hanh, Trương Chính, Tô Hoài, Bùi Hiển, Trần Đình Hựu, Nguyễn Văn Bổng, Vũ Tú Nam, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Phong Lê… mà theo cảm nhận của Huy Cận: “Ta đã có đủ thời gian để đánh giá sự đóng góp của Tự lực văn đoàn. Có thể nói Tự lực văn đoàn đã đóng góp lớn vào văn học sử Việt Nam. Họ có hoài bảo về văn hóa dân tộc”.[10] Và năm 2013, tại Thành phố Hồ Chí Minh, một hội thảo với chủ đề Nhìn lại Thơ mới và văn xuôi Tự lực văn đoàn như đã nói ở trên. Rồi gần đây vào ngày 17/10/2022, Viện Văn học đã tổ chức hội thảo “Thơ mới và Tự lực văn đoàn: 90 năm nhìn lại” thu hút sự quan tâm của giới lý luận, phê bình văn học trong cả nước. Không những thế, phong trào Thơ mới và Tự lực văn đoàn còn được nhiều sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh chọn làm khóa luận tốt nghiệp đại học, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ mà trong bài viết này chúng tôi không tiện liệt kê. Vấn đề này cũng minh chứng rõ cho thấy sự “phục sinh” của hiện tượng văn học này trong đời sống văn học nước nhà thời đổi mới.
Việc nhìn nhận và đánh giá lại phong trào Thơ mới và Tự lực văn đoàn có thể có xem là kết quả của sự thay đổi tư duy lý luận, phê bình, là một thành tựu rất đáng được ghi nhận của lý luận, phê bình văn học thời kỳ đổi mới.
* Về phong trào Nhân văn Giai phẩm
Khác với Thơ mới và Tự lực văn đoàn, trước thời kỳ đổi mới, tác phẩm của các nhà văn thuộc phong trào Nhân văn Giai phẩm như Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Cung, Phùng Quán, Hoàng Cầm, Văn Cao… đều bị cấm in ấn và tất nhiên cũng không được luận bàn, bị lên án là phản động, là sản phẩm của tư tưởng tiểu tư sản. Tuy nhiên, khi đất nước đổi mới, các nhà văn thuộc Nhân văn Giai phẩm được khôi phục danh hiệu nhà văn Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật thì tác phẩm của họ đồng loạt được xuất bản, phát hành, nghiên cứu và được sống lại một cách đàng hoàng trong đời sống văn học dân tộc. Đó là các tác phẩm: Những ngã tư và những cột đèn (2011), Thơ mini (1988), Bài thơ Việt Bắc (trường ca – 1990), Cổng tỉnh (1994), Mùa sạch (thơ 1998), Trần Dần – thơ (2008 – Giải Thành tựu trọn đời – Hội Nhà văn Hà Nội) của Trần Dần; 36 bài tình (in chung Dương Tường 1989), Trường ca Bác (thơ 1990), Thơ Lê Đạt – Sao Mai (in chung – 1991), Bóng chữ (thơ – 1994), Hèn đại nhân (truyện ngắn – 1994), Ngó lời (thơ – 1997), Từ tình Epphen (thơ – 1998), Mimoza (thơ – 2006), Truyện cổ viết lại (truyện ngắn, in chung Lê Minh Hà – 2006), U75 tự tình (thơ và đoản ngôn – 2007), Mi là người bình thường (truyện ngắn – 2007), Đối thoại đời và thơ (2008), Đường chữ (2009) của Lê Đạt; Vượt Côn Đảo (2007), Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo, Tuổi thơ dữ dội (1987), Thơ Phùng Quán (1995), Trăng hoàng cung (1993), Phùng Quán thơ (2003), Ba phút sự thật (ký, 2006), Tôi đã trở thành nhà văn như thế nào? (hồi ký, 2007), Phùng Quán còn đây (di cảo và hồi ức của bạn bè, 2007) của Phùng Quán; Xem đêm – thơ (2011) của Phùng Cung; Men đá vàng (truyện thơ, 1989), Trương Chi (kịch thơ, 1993), Tương lai (kịch thơ, 1995), Bên kia sông Đuống (thơ chọn lọc, 1993), Lá diêu bông (thơ chọn lọc, 1993), Về Kinh Bắc (thơ, 1994), 99 tình khúc (thơ tình, 1995) của Hoàng Cầm…
Việc xuất bản tác phẩm của các nhà văn thuộc phong trào Nhân văn Giai phẩm với những đánh giá công bằng khách quan là minh chứng cho việc đổi mới tư duy lý luận, phê bình văn học thời kỳ đổi mới và là một thành tựu cần được ghi nhận.
* Vấn đề văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975
Khác với việc nhìn nhận lại các hiện tượng văn học trong quá khứ nói trên, việc nhìn nhận lại văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975 mang một ý nghĩa xã hội văn hóa đặc biệt. Bởi, đây không chỉ đơn thuần là một vấn đề đổi mới tư duy lý luận, phê bình văn học mà vượt lên ý nghĩa ấy, đây còn là một vấn đề mang ý nghĩa thiêng liêng của tinh thần hòa hợp, hòa giải dân tộc qua việc công nhận các giá trị văn chương một thời bị kết án là phản động, là suy đồi, là “những tên biệt kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng” như suy nghĩ ấu trĩ và khắt khe trong tư duy của các nhà lý luận, phê bình văn học thời kỳ tiền đổi mới ở các công trình như: Văn hóa văn nghệ miền Nam dưới chế độ Mĩ ngụy (Trà Linh, Phong Hiền, Trịnh Tuệ Quỳnh, Hoa Lục Bình, Thạch Phương, Trần Hữu Tá, 1977), Văn hóa văn nghệ miền Nam dưới chế độ Mĩ ngụy tập 2 (Trần Độ, Hà Xuân Trường, Phong Hiền, Bùi Thị Kim Quỳ, Võ Quang Phúc, Nguyễn Văn Mười, Thế Nguyên, Bùi Công Hùng, Phan Đắc Lập, 1979), Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa (Đỗ Đức Hiếu, 1970) và một số bài báo như Mấy suy nghĩ về vấn đề nghiên cứu văn học thực dân mới miền Nam (Tạp chí Văn học số 4, 1977), Hai mươi năm văn học yêu nước tại các thành thị miền Nam 1954-1975 (Tạp chí Văn học số 6 – 1976) của Nguyễn Huy Khánh, Văn học suy đồi? Chủ nghĩa tiên phong? Chủ nghĩa hiện đại (Tạp chí Văn học số 5/1981) của Vũ Đức Phúc…
Và có thể nói, xu hướng chung của các nhà lý luận, phê bình nói trên vẫn là phủ định và lên án văn học miền Nam trước 1975 và cho rằng đó là những “nọc độc văn hoá nô dịch” (Chính Nghĩa, 1984). Nhưng từ khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975, đã được nhìn nhận lại một cách công bằng khách quan, được Đảng, Nhà nước công nhận là “Di sản văn học” của dân tộc cần được nghiên cứu và giữ gìn. Minh chứng cho vấn đề này là việc Nhà nước cho tái bản hàng loạt tác phẩm văn học miền Nam giai đoạn 1954 – 1975. Đó là các tác phẩm: Ca tụng thân xác (2006) của Nguyễn Văn Trung; Loan Mắt Nhung của Nguyễn Thụy Long (2014); Khung rêu (2016), Thú hoang (2016), Lao vào lửa, Mèo đêm (2017), Chiều mênh mông (2017) của Nguyễn Thị Thụy Vũ; Tuổi nước độc (2018), Sợi tóc tìm thấy (2018) của Dương Nghiễm Mậu; Lạc đạn, Nhà có cửa khóa trái, Nhăn rúm (2019) của Trần Thị Ngh.; Đọc lại Truyện Kiều, Người Việt cao quý, Bút máu của Vũ Hạnh; Triết học hiện sinh của Trần Thái Đỉnh; Nguồn gốc văn hóa Việt Nam, Cửa Khổng, Triết lý cái đình của Kim Định… Và hàng loạt tác phẩm về văn học, triết học, văn hóa, của Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Hiến Lê, Sơn Nam; thơ Bùi Giáng, Nguyên Sa, Du Tử Lê, Phạm Thiên Thư, Hoài Khanh, Thanh Tâm Tuyền, Ngô Kha… Rồi gần đây đầu năm 2021, Nhã Nam tái bản một số tác phẩm của Nguyễn Thị Hoàng như: Vòng tay học trò, Một ngày rồi thôi, Cuộc tình trong ngục thất, Tiếng chuông chờ người tình trở về, Tuần trăng mật màu xanh…
Bên cạnh đó, nhiều công trình nghiên cứu, lý luận, phê bình về văn học miền Nam trước 1975 cũng được xuất bản. Đó là các tác phẩm như: Nhìn lại một chặng đường văn học (Trần Hữu Tá, 2000); Những tiền đề để nghĩ lại về Lê Văn Trương (Tạp chí Văn học số 5/1991, tr.15) của Vương Trí Nhàn; Nhìn lại hoạt động lý luận, phê bình của các cây bút yêu nước cách mạng ở miền Nam giai đoạn 1954-1975 (Tạp chí Văn học số 4/1998) của Trần Hữu Tá; Vũ Hạnh và sự hưng vong của văn nghệ miền Nam trước 1975 của Nguyễn Xuân Huy (Tạp chí Nhà văn số 4-2006); Lý luận – phê bình văn học ở đô thị miền Nam 1954-1975 (2009) của Trần Hoài Anh; Truyện ngắn trong dòng văn học yêu nước đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975 (2012) của Phạm Thanh Hùng…
Việc khẳng định văn học miền Nam trước 1975 là một di sản văn học như đề án 15-ĐA/BTGTW ngày 14 tháng 7 năm 2023 của Ban Tuyên giáo Trung ương đã khẳng định cùng với việc tái bản hàng loạt tác phẩm văn học miền Nam, các công trình nghiên cứu về văn học miền Nam đã khẳng định vị thế của văn học miền Nam trong nền văn học dân tộc. Và có thể xem đây là một trong những thành tựu của việc đổi mới tư duy lý luận, phê bình thời kỳ đổi mới mà việc Hội Nhà văn trao giải thưởng lý luận, phê bình năm 2024 cho công trình Lý luận – phê bình văn học miền Nam: Tiếp nhận và ứng dụng của tác giả Trần Hoài Anh là một xác chứng thuyết phục cho vấn đề này.
2.2.2.3. Vấn đề tiếp nhận và ứng dụng lý thuyết văn học phương Tây thời kỳ đổi mới
Một trong những thành tựu đặc biệt của lý luận, phê bình văn học thời kỳ đổi mới đồng thời cũng mở ra những triển vọng cho nền lý luận, phê bình văn học dân tộc trong tương lai khi đất nước bước vào kỷ nguyên mới trong xu hướng toàn cầu hóa, đó là việc tiếp nhận và ứng dụng các học thuyết lý luận, phê bình hiện đại của phương Tây vào nghiên cứu các hiện tượng văn học. Bởi, khi nhà văn đã thay đổi tư duy sáng tác theo các xu hướng lý thuyết hiện đại như chủ nghĩa siêu thực, hiện thực huyền ảo, chủ nghĩa hiện sinh, phân tâm học, dòng ý thức, phê bình sinh thái, phê bình nữ quyền… mà nhà lý luận, phê bình khi luận bàn về sáng tác văn học không quy chiếu từ các hệ hình lý thuyết này sẽ không giải mã được sự đa dạng trong giá trị của các sáng tác văn học. Vì thế, từ thời kỳ đổi mới đến nay, việc tiếp nhận và ứng dụng lý thuyết văn học phương Tây đã có những thành quả cần được ghi nhận. Và đây là một trong những thành tựu quan trọng của lý luận, phê bình văn học nước ta từ 1975 đến nay, bởi, từ đây sẽ mở ra cho lý luận, phê bình văn học Việt Nam những triển vọng tốt đẹp trên hành trình hòa nhập với lý luận, phê bình thế giới trong xu hướng hội nhập và phát triển của thời kỳ toàn cầu hóa mà chúng ta có thể nhận diện qua việc tiếp nhận và ứng dụng một số trường phái lý thuyết sau:
* Về lý thuyết thi pháp học, có các công trình nghiên cứu và ứng dụng: Một số vấn đề thi pháp học hiện đại (1993), Dẫn luận thi pháp học (1998), Thi pháp thơ Tố Hữu (1987), Thi pháp Truyện Kiều (2002) của Trần Đình Sử; Từ kí hiệu học đến thi pháp học (1992) của Hoàng Trinh; Thi pháp hiện đại (2001) của Đỗ Đức Hiểu; Thi pháp ca dao của Nguyễn Xuân Kính (1992); Những vấn đề thi pháp của truyện (2000) của Nguyễn Thái Hòa; Thi pháp tiểu thuyết và sáng tác của Ernest Hemingway (2003) của Đào Ngọc Chương; Thi pháp học và vấn đề giảng dạy văn học trong nhà trường (2006) của Nguyễn Thị Dư Khánh; Thơ – thi pháp và chân dung (2009) của Đặng Tiến; Thơ Hoàng Vũ Thuật nhìn từ thi pháp học của Roman Jakobson (2010) của Hoàng Thụy Anh; Thi pháp tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng (2013) của Nguyễn Thành…
* Về thuyết phân tâm học có các công trình dịch thuật, nghiên cứu, và ứng dụng: Freud đã thực sự nói gì của David Stafford – Clark (1988, do Lê Văn Luyện và Huyền Giang dịch); Vật tổ và cấm kị của Freud (Lương Văn Kế dịch, 1999); Phân tâm học nhập môn của S.Freud (2002) do Nguyễn Xuân Hiến dịch; Jung đã thực sự nói gì? của Edward Armstrong do Bùi Lưu Phi Khanh dịch (2002); Bệnh lý học tinh thần về sinh hoạt đời thường của S.Freud do Trần Khang dịch (2002); Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật (2000), Phân tâm học và văn hóa tâm linh (2002), Phân tâm học và tình yêu (2003), Phân tâm học và tính cách dân tộc (2007) do Đỗ Lai Thúy biên soạn; Dẫn luận về S.Freud, Dẫn luận về Jung của tác giả Anthony Storr do Thái An dịch (2016); Đi tìm ẩn ngữ trong thơ Hoàng Cầm của Đỗ Lai Thúy; Ảnh hưởng của phân tâm học Freud trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng (Tạp chí Văn học số 4-1997) của Nguyễn Thành; Những vấn đề của tiềm thức trong thơ Hàn Mặc Tử (Tạp chí Cửa Việt, số 7-2000) của Nguyễn Thị Hồng Nam; S.Freud và phân tâm học (2004) của Phạm Minh Lăng; Học thuyết S.Freud và sự thể hiện của nó trong văn học Việt Nam (2008) của Trần Thanh Hà; Phê bình mẫu cổ và mẫu nước trong văn chương Việt Nam (2009) của Nguyễn Thị Thanh Xuân; Diễn ngôn về tính dục trong văn xuôi hư cấu Việt Nam (từ đầu thế kỷ XX đến 1945) (2009) của Trần Văn Toàn.
* Về chủ nghĩa hiện sinh có các công trình: Mấy trào lưu triết học phương Tây của Phạm Minh Lăng (1988); Chủ nghĩa hiện sinh: Lịch sử, sự hiện diện ở Việt Nam của Nguyễn Tiến Dũng (1999); Từ chủ nghĩa hiện sinh tới thuyết cấu trúc của Trần Thiện Đạo (2008); Tìm hiểu chủ nghĩa hiện sinh của R.Campbell do Nguyễn Văn Tạo dịch; Chủ nghĩa hiện sinh của P.Foulquié và Hiện sinh – một nhân bản thuyết của J.P.Sartre do Thụ Nhân dịch; Thuyết hiện sinh là một thuyết nhân bản do Đinh Hồng Phúc dịch (2018); Chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam Việt Nam (trên bình diện lý thuyết) của Huỳnh Như Phương (2008); Ám ảnh hiện sinh trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp của Nguyễn Thành Thi (2011); Tâm thức hiện sinh với lý luận văn học của Nguyễn Mạnh Tiến (2012); Khuynh hướng phê bình hiện sinh ở đô thị miền Nam 1954-1975, Vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều từ góc nhìn triết học hiện sinh trong phê bình văn học ở miền Nam trước 1975, Dấu ấn tâm thức hiện sinh trong văn xuôi thời kỳ đổi mới, Khuynh hướng hiện sinh trong thơ nữ Việt Nam thời kỳ đổi mới, Cảm thức hiện sinh trong thơ Lưu Quang Vũ, Cảm thức hiện sinh trong thơ Xuân Diệu trước năm 1945, Lâm Thị Mỹ Dạ và sự ám ảnh về cái đẹp của tâm thức hiện sinh… của Trần Hoài Anh.
* Về lý thuyết Mỹ học tiếp nhận có các công trình: Từ văn bản đến tác phẩm văn học (1988), Tác phẩm văn học như một quá trình (2004) của Trương Đăng Dung; Văn học, sáng tạo và tiếp nhận (2003) của Lê Thành Nghị; Việt Nam và phương Tây – tiếp nhận giao thoa trong văn học (2007) của Đặng Anh Đào; Văn chương và tiếp nhận (lý thuyết, luận giải, phê bình) của Trần Thái Học (chủ biên); Văn học Việt Nam hiện đại – sáng tạo và tiếp nhận (2015) của Bích Thu…
* Về lý thuyết Văn học so sánh có các công trình: Dẫn luận văn học so sánh (1995) của Trần Thanh Đạm; Những vấn đề lý luận của văn học so sánh (1995), Lý luận văn học so sánh (1998), Nghiên cứu văn học lý luận và ứng dụng (1999) của Nguyễn Văn Dân; Văn học so sánh – lý luận và ứng dụng (2001) của Lưu Văn Bổng (chủ biên); Từ văn học so sánh đến thi học so sánh (2002) của Phương Lựu; Văn học so sánh – nghiên cứu và dịch thuật (2003) của Khoa Ngữ văn và Báo chí Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh; Những bình diện chủ yếu của văn học so sánh (2004) của Lưu Văn Bổng; Văn học so sánh – nghiên cứu và triển vọng (2005) của Khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội do Trần Đình Sử, Lã Nhâm Thìn, Lê Lưu Oanh tuyển chọn…
* Về Chủ nghĩa hậu hiện đại có các công trình: Lý thuyết văn học hậu hiện đại (2011) của Phương Lựu; Văn học hậu hiện đại – lý thuyết và tiếp nhận (2012) của Lê Huy Bắc; Văn học hậu hiện đại – diễn giải và tiếp nhận (2013) Nguyễn Thành, Hồ Thế Hà Nguyễn Hồng Dũng (chủ biên)…
* Về lý thuyết Phê bình sinh thái có các công trình dịch thuật nghiên cứu và ứng dụng như: Phê bình sinh thái – nhìn từ lý thuyết giải cấu trúc (Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2013); Nghiên cứu văn học trong thời đại khủng hoảng môi trường của Trần Thị Ánh Nguyệt (Tạp chí Sông Hương, 2014); Hội thảo quốc gia “Văn học Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa”, tại Đại học Sư phạm Đà Nẵng năm 2016, có các tham thuận: “Phê bình sinh thái ở Việt Nam” (Trần Thị Ánh Nguyệt), “Văn xuôi Nam Bộ sau đổi mới từ góc nhìn phê bình sinh thái” (Nguyễn Thùy Trang), “Thiên nhiên trong văn xuôi Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn từ lý thuyết phê bình sinh thái” (Ngô Minh Hiền)…; Phê bình sinh thái là gì? do Hoàng Tố Mai chủ biên (2017); Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương của Nguyễn Thị Tịnh Thy (2017); Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái của Trần Thị Ánh Nguyệt và Lê Lưu Oanh, (2017)… Ngoài ra còn một số lý thuyết hiện đại phương Tây cũng được vận dụng vào trong nghiên cứu văn học như Phong cách học, Tự sự học, Phê bình nữ quyền… nhưng do giới hạn về dung lượng bài viết, chúng tôi chưa thể đề cập đến.
Như vậy, có thể nói việc tiếp nhận và ứng dụng lý thuyết văn học hiện đại phương Tây vào nền lý luận – phê bình văn học nước ta trong thời kỳ đổi mới là căn tố tạo nên những thành tựu quan trọng của nền lý luận, phê bình văn học dân tộc từ sau 1975 đến nay và từ cơ hội này đã mở ra nhiều triển vọng với những hướng đi đúng đắn, phù hợp cho việc phát triển bền vững nền lý luận, phê bình văn học dân tộc trên hành trình hòa nhập với thế giới hiện đại. Bởi, nhờ việc tiếp nhận và ứng dụng các học thuyết lý luận, phê bình phương Tây, các nhà lý luận – phê bình đã thổi vào đời sống văn học luồng sinh khí mới, góp phần tạo ra những giá trị mang tính hiện đại cho nền văn học dân tộc, kích thích cảm hứng sáng tạo cho nền lý luận, phê bình thời kỳ đổi mới. Và, xét về một phương diện nào đó, sự tiếp biến các khuynh hướng lý thuyết phương Tây không chỉ tạo nên sự đa dạng của đời sống lý luận, phê bình văn học nước nhà mà còn góp phần làm phong phú và hiện đại hóa nền phê bình văn học dân tộc vốn còn nhiều giới hạn so với nền lý luận, phê bình của thế giới.
3. KẾT LUẬN
Chiến tranh đã lùi xa 50 năm nhưng những di chứng của nó không phải không còn trong tâm thức dân tộc. Đây cũng là điều đặt ra cho văn học nước nhà, trong đó có lý luận, phê bình mà các nhà văn, nhà lý luận, phê bình không thể không trăn trở, ưu tư để tìm làm thế nào phát triển nền văn học nước nhà, trong đó có lý luận, phê bình theo hướng bền vững, hiện đại đáp ứng yêu cầu khoa học và thực tiễn trong nghiên cứu văn học.
Những gì mà nền lý luận, phê bình văn học đã gặt hái được trên cánh đồng văn chương nước nhà từ sau 1975 đến nay, tuy chưa phải là những mùa “vàng” bội thu, bởi, đâu đó trong đời sống lý luận, phê bình vẫn còn những “vết hằn”, những “khoảng tối”, những “đám sương mù” làm vẩn đục đời sống văn học qua những cuộc tranh luận, thảo luận, bàn luận mà ở đó tinh thần dân chủ, cởi mở, đối thoại nhân văn, khai phóng, vốn là những phẩm tính của văn hóa luận bàn không được tôn trọng, không được thắp sáng mà trái lại còn bị “dập vùi”. Mặc dù vậy, những thành tựu và triển vọng của nền lý luận, phê bình văn học nước nhà từ sau 1975 đến nay, mà rõ nhất là lý luận, phê bình văn học thời kỳ đổi mới là điều không thể phủ nhận. Bởi, đây là sự minh chứng thuyết phục cho việc đổi mới tư duy quản lý văn nghệ của Đảng, Nhà nước theo tinh thần cởi mở, dân chủ để phát huy sự sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ. Rõ ràng không có công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta sẽ không có một cơ đồ Việt Nam rạng rỡ như hôm nay và riêng trong lĩnh vực văn học những hiện tượng như phong trào Thơ mới, Tự lực văn đoàn, Nhân văn Giai phẩm, Văn học miền Nam 1954-1975 không biết bao giờ được “phục sinh” để bước ra ánh sáng hòa nhịp cùng hơi thở của đời sống xã hội và công chúng văn học!?…
Và không có bầu khí quyển của thời kỳ đổi mới làm sao chúng ta có thể tiếp nhận những học thuyết hiện đại của phương Tây như phân tâm học, chủ nghĩa hiện sinh, hiện tượng luận, cấu trúc luận, phê bình sinh thái, phê bình nữ quyền, tự sự học, mỹ học tiếp nhận… ứng dụng vào việc nghiên cứu, giải mã các hiện tượng văn học để tìm ra những chân giá trị mới cho văn học nước nhà và mở ra triển vọng cho sự phát triển bền vững của nền văn học dân tộc, trong đó có lý luận, phê bình, để thật sự hòa nhập vào ngôi đền văn chương của nhân loại mà trước thời kỳ đổi mới là một không gian xa thẳm tưởng chừng không bao giờ với tới. Bởi, theo Nguyễn Khoa Điềm: “Dù đất nước đã mở cửa nhưng việc khai thác thành quả của lý luận hiện đại thế giới cũng như truyền thống lý luận của dân tộc lại chưa được nghiên cứu đầy đủ có hệ thống”[11]. Còn theo Nguyễn Minh Châu: “Văn học bao giờ cũng phải trả lời những câu hỏi của ngày hôm nay, bao giờ cũng phải đối thoại với những người đương thời về những câu hỏi cấp bách của đời sống”.[12]
Thành tựu của nền văn học nước nhà từ sau 1975 đến nay, trong đó có lý luận, phê bình đã góp phần trả lời nhiều vấn đề cuộc sống đặt ra, tuy không phải không còn những hạn chế cần khắc phục. Song, để có những thành tựu và triển vọng tốt đẹp trong tương lai, nền lý luận, phê bình văn học nước nhà vẫn còn đó nhiều câu hỏi ở phía trước cần năng lực lao động và tư duy sáng tạo của các nhà lý luận, phê bình khi nền văn học dân tộc bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên hội nhập với thế giới trong xu hướng toàn cầu hóa..
Xóm Đình An Nhơn, 4.9.2025
TRẦN HOÀI ANH
Tài liệu tham khảo:
[1] Nguyễn Minh Châu, Văn nghệ Quân đội số 11/1978 – Trang giấy trước đèn, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.57
[2] Nguyễn Minh Châu, Văn nghệ Quân đội số 11/1978 – Trang giấy trước đèn, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.62
[3] Nguyễn Minh Châu, Văn nghệ Quân đội số 11/1978 – Trang giấy trước đèn, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.62
[4] Nguyễn Minh Châu, Văn nghệ Quân đội số 11/1978 – Trang giấy trước đèn, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.57
[5] Nguyễn Minh Châu, Văn nghệ Quân đội số 11/1978 –Trang giấy trước đèn, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.58
[6] Nguyễn Minh Châu, Văn nghệ Quân đội số 11/1978 – Trang giấy trước đèn, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.62
[7]Trần Đình Sử, “Ba mươi năm lý luận, phê bình, nghiên cứu văn học – thành tựu và suy ngẫm”, Sông Hương (tuyển chọn 2003 – 2013), Nxb. Thuận Hóa, Huế., tr. 144
[8] Nhiều tác giả (1989), “Nhìn lại một số hiện tượng văn học”, Báo Giáo viên Nhân dân, (27,28,29,30,31)
[9] Phan Cự Đệ, Hàn Mặc Tử – Tác phẩm phê bình và tưởng niệm, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2002, tr.7
[10]10 Hà Minh Đức (2017), Tự lực văn đoàn – trào lưu – tác giả, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr.21
[11] Nguyễn Khoa Điềm, “Phát biểu kết luận hội nghị lý luận phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc“, Tạp chí Nhà văn số 4/2006, tr.62
[12] Nguyễn Minh Châu, (Văn nghệ Quân đội số 9/1980), Trang giấy trước đèn, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002, tr.78





