Nhìn nhận thật khách quan và kỹ lưỡng, ta sẽ thấy từ 1975 đến nay, đất nước đã trải qua những cung bậc biến chuyển hết sức phức tạp. Đó là sự biến chuyển của nửa thế kỷ chất chứa ý chí hồi sinh, khát vọng vươn dậy để phát triển sau những tháng năm dằng dặc chìm trong điêu linh chiến tranh. Chúng ta đã đi từ lòng kiêu hãnh của người tồn tại sau cuộc chiến sang lo âu, lúng túng của người chưa nhận rõ con đường cần đi trong hòa bình. Chúng ta đã đi từ sự thống nhất ý chí chung của cộng đồng sang đến sự xé lẻ, phân rã do mưu cầu riêng của mỗi cá thể. Và chúng ta đã đi từ sự eo hẹp theo mọi nghĩa, cả vật chất lẫn tinh thần, sang đến phát triển cởi mở, đa dạng như hiện tại. Tất cả các cung bậc biến chuyển ấy đã nhào nặn nên xã hội Việt Nam và con người Việt Nam ngày hôm nay.

Với đặc trưng căn bản là bám sát để phản ánh thân nhiệt đời sống xã hội, văn học Việt Nam 50 năm qua, không ít thì nhiều cũng trải qua ngần ấy những cung bậc của chuyển động nhận thức và cảm xúc.

Cụ thể; Những năm đầu sau 1975, văn học một đằng vẫn tiếp tục đà văng theo quán tính là cảm hứng sử thi, một đằng bắt đầu rụt rè ngẫm ngợi về số phận dân tộc và thân phận mỗi con người. Và văn học chỉ thực sự có bước chuyển công khai từ thời điểm đảng khởi xướng tinh thần Đổi Mới. Chính tinh thần Đổi Mới, với sự cởi trói về tư duy nhận thức cũng như cởi trói về góc tiếp cận hiện thực, đã trả lại thực quyền cho văn học, đó là quyền không hạn chế đề tài và quyền viết chân thực. Đây là giai đoạn xuất hiện những tác phẩm đề cập trực diện, ráo riết về thực trạng đời sống, nó đã  chạm tới nhiều vấn đề nhức nhối, nóng bỏng mà xã hội đang đối diện, như sự xuống cấp của đạo đức, sự mất giá của nhân phẩm, sự thiếu vắng lí tưởng cả của chung lẫn riêng, và nó cũng rung tiếng chuông cảnh báo về sự lãng quên quyền tự do tư tưởng cho mỗi công dân. Nói cách khác, văn học từng bước giành lại quyền phản biện mà nó đã bị khước từ trong một thời gian dài vì những lí do khách quan có thể châm chước cùng những lí do chủ quan được coi là sai lầm, ấu trĩ. Tất cả những điều ấy đã phần nào lay động nhận thức một bộ phận xã hội cùng hệ thống chính trị, góp phần tạo ra những điều chỉnh phù hợp với nhu cầu phát triển của thực tế.

Sau Đổi Mới, đất nước mạnh dạn bước tiếp bước thứ hai để vươn ra với thế giới, đó là hội nhập toàn cầu. Đây là bước vận động không thể cưỡng lại do lực đẩy của xu thế phát triển thời đại. Lúc này, sự du nhập và sự tiếp nhận đầy thoáng đãng các hệ thống lí thuyết, các trường phái, các khuynh hướng văn chương thế giới khiến đa phần người làm văn học nhận ra rằng, ngoài nhu cầu viết cái gì, thì còn có nhu cầu quan trọng khác, đó là cần viết như thế nào. Đây là giai đoạn bắt đầu hình thành, phân chia nhiều khuynh hướng, ở cả ba lĩnh vực, văn xuôi, thơ và lí luận phê bình.

Không thể phủ định được rằng, từ những bước đổi thay về cơ chế xã hội theo tinh thần ngày càng tự do, đa chiều, đã tác động rất lớn tới sự phát triển văn học. Kết quả là, khi nhìn vào số lượng tác giả cũng như tác phẩm văn học trong nửa thế kỷ qua, chúng ta thấy đã hình thành một vóc dáng bề thế trên diện rộng của văn học. Tuy nhiên, trong nghệ thuật, giữa số lượng với chất lượng, giữa bề rộng với độ sâu là cả một khoảng cách lớn mà chỉ có tài năng cộng với bầu khí quyển tự do thực sự mới đủ sức san bằng được.

Văn học 50 qua giống như một cánh rừng, đó là cánh rừng nhiều chủng loại, nhiều kích thước khác nhau, thậm chí rất khác nhau cùng chen vai thích cánh sinh tồn. Muốn đánh giá cánh rừng, trước hết cần đánh giá từng khu vực, từng chủng loại, từ đó mới có thể bao quát chính xác hơn trên bình diện rộng thể trạng của cánh rừng ấy.

Đánh giá, tổng kết nửa thế kỷ văn học kể từ sau 1975 tới nay, cũng tương tự. Cũng đòi hỏi sự nhìn nhận từng phân khúc, từng thể loại với các khía cạnh về tư duy nghệ thuật, về nhân sinh quan, cùng đặc trưng quan điểm tiếp cận, bút pháp, hình tượng nghệ thuật, cả vấn đề nhận thức về sứ mệnh cũng như vai trò của lòng quả cảm và tinh thần độc lập mà người sáng tạo cần phải có.

Chúng ta cùng nhau đánh giá xem văn học giai đoạn qua đã tác động ra sao tới đời sống tinh thần cộng đồng. Cụ thể, văn học đã làm tốt chức năng căn bản của nó là phản ánh, mổ xẻ tình thế, số phận của dân tộc cũng như thân phận của mỗi cá nhân hay chưa?

Chúng ta nhìn nhận xem văn học 50 năm qua ở đâu, đi ngang, đi lên hay đi xuống trong tương quan dòng chảy liên tục của lịch sử văn học dân tộc? Chúng ta đánh giá xem từ 1975 tới nay, văn học có kiến tạo được nét đặc biệt cho giai đoạn của mình hay không, nếu có thì diện mạo ấy ra sao? Tương tự như vậy, nửa thế kỷ qua văn học có tạo lập được hệ thống các tác phẩm, các nhân vật và hệ thống các tác giả đủ sức trụ lại với thời gian như các giai đoạn trước hay không? Nếu cần phải chỉ ra, thì đó là những tác phẩm tiêu biểu nào, những nhân vật tiêu biểu nào, và những gương mặt tác giả tiêu biểu nào?

Về hạn chế: Có không ít ý kiến cho rằng văn học văn học giai đoạn 50 năm qua của chúng ta chủ yếu vẫn lấy hiện thực làm dòng chảy chính, chưa thực sự đa dòng, đa sắc như thế giới đang có. Lại có nhiều ý kiến đánh giá văn học nửa thế kỷ qua chưa tương xứng với tầm vóc lớn lao của thời cuộc và thời đại mà dân tộc đã trải qua, cụ thể như chưa có nhiều tác phẩm, nhiều công trình nghiên cứu đỉnh cao. Các ý kiến ấy có đúng không? Nếu đúng thì yếu tố nào cản trở sự phong phú, yếu tố nào khiến văn học chưa có tác phẩm lẫn công trình tầm vóc? Do thiếu vắng tài năng, do sự o bế về môi trường sáng tác, hay do những nguyên nhân nào khác?

Những vấn đề này không dễ trả lời, nhưng đến thời điểm chúng ta phải tìm cách trả lời. Ban tổ chức mong muốn, những câu trả lời diễn ra trên tinh thần khoa học khách quan, đặt các vấn đề trong bối cảnh cụ thể, trong tương quan với khu vực và thế giới, trong cả đặc trưng của dân tộc tính, có thế mới hy vọng đạt được cái nhìn chính xác.

Trong quá trình chuẩn bị cho hội thảo, Ban tổ chức đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình, trách nhiệm của các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ bằng hình thức gửi những tham luận nghiêm túc, công phu tới tham gia. Tuy nhiên do hạn chế về thời gian, tại đây, Ban tổ chức đề nghị các anh chị trình bày thật gọn suy nghĩ, quan điểm của mình, để dành thời gian cho các đại biểu khác phát biểu hoặc trao đổi trực tiếp. Ban tổ chức cũng mong muốn chúng ta cùng nhau lắng nghe và tôn trọng những ý kiến, những quan điểm của nhau, bởi điều quan trọng của văn học, chính là biết nhìn ra vẻ đẹp của sự khác biệt và tôn trọng giá trị của sự khác biệt.

Và xin nhấn mạnh rằng: Việc Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức chuỗi các cuộc hội thảo mang tinh thần tổng kết này, không phải nhằm đoạn tuyệt hay kết thúc một giai đoạn văn học, trái lại, mục đích chính là để góp phần tạo đà cho bước phát triển tiếp theo một cách liền mạch hơn, vững vàng hơn, chuyên nghiệp, chất lượng hơn.

 NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG