Bài viết khảo sát những hiện tượng giao lưu và tiếp biến văn hoá nước ngoài trong văn học Việt Nam trên ba đặc điểm sau đây: văn học Việt Nam hướng ra thế giới; văn học Việt Nam tiếp thu, tiếp biến văn học nước ngoài; và văn học Việt Nam được sáng tác ở nước ngoài.

Tất nhiên đây là ba đặc điểm theo chúng tôi là đáng chú ý. Ngoài ra, có lẽ việc tổng kết văn học Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất còn có thêm nhiều nghiên cứu trên nhiều bình diện đa dạng khác nữa.

1. GIAO LƯU VÀ TIẾP BIẾN VĂN HOÁ

Văn học Việt Nam 50 năm qua, đặc biệt là từ sau 1986 đến nay đã có nhiều bước tiến, thay đổi theo chiều hướng đa dạng, phong phú, dân chủ. Đặc biệt, những hiện tượng giao lưu và tiếp biến văn hoá nước ngoài là một dấu ấn rõ nét khi nhìn lại văn học Việt Nam.

Giao lưu và tiếp biến văn hoá là hiện tượng xảy ra khi những cộng đồng người có văn hoá khác nhau giao lưu tiếp xúc với nhau tạo ra những biến đổi về văn hoá ở một hay nhiều nhóm người đó, giúp phát triển văn hoá tiến bộ và nhiều màu sắc hơn. Quá trình này thực chất là sự gặp gỡ, đối thoại giữa các nền văn hoá, và từng nền văn hoá sẽ chọn lọc, thu nhập, tiếp biến những giá trị phù hợp với chính mình để làm giàu, phát triển văn hoá dân tộc. Những giá trị phù hợp ở đây có nghĩa là phải dựa vào các yếu tố văn hoá nội sinh để lựa chọn tiếp nhận cái ngoại sinh.  Hệ giá trị xã hội và tâm thức dân tộc có vai trò rất quan trọng, và điều này được minh chứng rất rõ trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hoá của Việt Nam trong suốt tiến trình lịch sử.

Ví dụ như trong giai đoạn Bắc thuộc, chúng ta tiếp biến với văn hoá Trung Quốc với tâm thế “đối đầu văn hoá” vì người Trung Quốc thống trị và áp đặt văn hoá Hán, còn người Việt chống lại để bảo vệ văn hoá gốc, nhờ đó mà bản sắc Việt được mài giũa và khẳng định mạnh mẽ hơn.

Đến giai đoạn các vương triều độc lập (TK X-XIX) chúng ta tiếp biến văn hoá với tâm thế “đối thoại văn hoá” là chủ yếu nhưng vẫn có “đối đầu văn hoá”. Chúng ta tiếp biến Khổng học, đạo Lão, và một số khái niệm, tổ chức chính quyền,…ta học chữ Hán nhưng cũng tạo ra chữ Nôm và sau này là từ Hán-Việt. Làng xã là nơi Trung Quốc và cả Pháp sau này cũng không tác động được và là nơi bảo tồn văn hoá gốc.

Công cuộc hiện đại hoá lần thứ nhất (đầu thế kỷ XX) cho thấy sự tiếp biến văn hoá phương Tây, rõ rệt nhất là văn hoá Pháp. Ban đầu, tư thế của người Việt là “đối đầu” như kiểu không muốn bỏ chữ Nôm, không học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp (Nguyễn Đinh Chiểu). Về sau (những năm 20-30 của thế kỷ XX), song song với đối đầu văn hoá là đối thoại văn hoá. Các nhà nho hiện đại như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Hoàng Xuân Hãn, Nhất Linh,…đã đưa khoa học, các khái niệm triết học, chính trị, mỹ học, lý luận phương Tây vào (dân chủ, hiện thực, lãng mạn, cái tôi,…). Thơ mới, Tự lực văn đoàn, văn học hiện thực phê phán,…là sự tiếp biến phương Tây để tạo ra những bước ngoặc quan trọng cho văn học Việt Nam.

Giai đoạn sau 1975, đặc biệt là sau thời kỳ đổi mới, việc giao lưu kinh tế, văn hoá, văn học trở nên vô cùng quan trọng, có thể xem như đây là công cuộc hiện đại hoá văn học lần hai. Giai đoạn này nhìn chung có các đặc điểm nổi bật sau:

– Sự can thiệp, giúp sức của khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ của công nghệ thông tin khiến cho các sản phẩm văn hoá, văn học ngày càng đa dạng, thường xuyên, cập nhật. Đặc biệt trong thời đại phát triển của AI, chat GPT, Gemini,…càng khiến cho việc tạo ra sản phẩm văn hoá trở nên tinh vi, phức tạp, thật giả đan xen. Tuy nhiên, CNTT hay AI không thể thay thế được bản lĩnh, giá trị sống, trải nghiệm sống – điều rất cần thiết cho tố chất của người làm sáng tạo.

– Giao lưu, tiếp biến văn hoá, văn học hiện nay là hoàn toàn chủ động và tự nguyện, đó là đối thoại văn hoá chứ không còn là đối đầu văn hoá như trước kia nữa. Vì thế mà các nhà lý luận đề cao lý thuyết đa văn hoá, xuyên văn hoá chứ không còn là liên văn hoá như trước kia.

– Giao lưu, tiếp biến văn hoá, văn học hiện nay rất cần nội lực, bản lĩnh tiếp nhận vì xu thế tận dụng sức mạnh mềm (soft powers) đang rất phổ biến. Nhiều quốc gia phát triển đang tìm cách tạo ảnh hưởng văn hoá lên các nước khác bằng những con đường khác nhau, chúng gắn chặt với lợi ích kinh tế, chính trị, thương mại,…(trường hợp Hàn Quốc quảng bá văn hoá của họ là một ví dụ rất thành công, nhờ làn sóng Hàn lưu (Hallyu) trên các mặt âm nhạc, điện ảnh, truyền hình, văn học,…mà thế giới cũng như các nước trong khu vực biết tới Hàn Quốc, đẩy theo sự phát triển và xâm nhập của kinh tế, thương mại Hàn Quốc tại các quốc gia đó). Như vậy, chúng ta phải có sức mạnh văn hoá nội lực để chuyển hoá các yếu tố văn hoá ngoại lai thành cái của mình.

2. GIAO LƯU VÀ TIẾP BIẾN VĂN HOÁ TỪ 1986 ĐẾN NAY

Lỗ Tấn trong bài tạp văn “Chủ nghĩa lấy về” (Hoa cái tập, 1934) khi băn khoăn về vị thế của Trung Quốc thời cận đại trong tương quan thế giới đã từng đưa ra hai khái niệm rất hay, đó là “chủ nghĩa lấy về” và “chủ nghĩa tặng lại”. “Chủ nghĩa lấy về” nói nôm na là “tiến ra thế giới”, “tồn tại cùng thế giới”…, tức là cần có tư thế chủ động yêu cầu cải cách mở cửa, vì thế giới buộc chúng ta tham gia vào sự phát triển chung của nó. Tiếp thu những cái hay của văn hoá thế giới một cách chọn lọc song song với bảo tồn củng cố văn hóa dân tộc là con đường hay nhất. “Chủ nghĩa tặng lại” không phải là đem biếu không, mà còn biết lan toả, nhân rộng, phổ biến những giá trị của mình, chứng tỏ cho thế giới biết văn hoá chúng ta cũng đáng được học tập. Từ đó, khẩu hiệu “chủ nghĩa lấy về” của Lỗ Tấn rất được giới trí thức Trung Hoa đương đại tán thưởng.

Xuất phát từ suy nghĩ trên, chúng tôi đưa ra ba đặc điểm của việc giao lưu tiếp biến văn hoá từ sau 1975 ở Việt Nam như sau:

1.1 “Chủ nghĩa lấy về”: Văn học Việt Nam tiếp biến văn học nước ngoài qua việc tiếp thu, học hỏi

Quá trình học hỏi, tiếp thu văn học nước ngoài, các lý thuyết nước ngoài đã diễn ra vô cùng sôi nổi từ sau 1986 đến nay. Ở đây, chúng tôi đề cập một vài xu hướng sau:

1.1.1. Công tác dịch thuật các tác phẩm văn học nước ngoài, các trường phái lý luận, các lý thuyết nghiên cứu,…được giới thiệu một cách đa dạng, phong phú.

Có thể kể đại ý các xu hướng dịch thuật trong 40 năm qua: nổi bật nhất là khuynh hướng dịch tác phẩm văn học đại chúng của thế giới như Mỹ (James Hadley Chase, Sidney Sheldon, Nicholas Sparks,…), Pháp (Guillaume Musso, Marc Levy,…), Nhật (Keigo Higashino, Murakami, Yoshimoto Banana,…), Trung Quốc (các tác giả tiểu thuyết ngôn tình như Cố Mạn, Diệp Lạc Vô Tâm, Tân Di Ổ,…)… Tất nhiên bức tranh dịch thuật văn học tinh hoa sẽ ít hơn nhưng không phải không có những khởi sắc. Những tác giả, tác phẩm kinh điển vẫn được dịch và tái bản (bản dịch trọn vẹn sử thi Illiad, Odyssey; Metamorphoses – Biến thể) bên cạnh các tác giả nổi tiếng đương đại. Các tác giả vừa đạt giải thế giới (Nobel, Goncourt, Pulitzer, Man Booker, Kafka,…) thì ở Việt Nam sẽ lập tức được dịch ngay, kể cả các tác giả xa lạ hay ngôn ngữ hiếm. Trường hợp của Olga Tokarczuk (Ba Lan, Nobel 2018), Peter Handke (Áo, Nobel 2019), Mario Vargas Llosa (Peru, Nobel 2010),…là những ví dụ cho thấy sự nhanh nhạy tiếp nhận văn học thế giới.

Các lý thuyết nghiên cứu, lý luận văn học cũng được giới thiệu nhiều ở Việt Nam như phê bình nữ quyền, phê bình sinh thái, phê bình hậu thực dân, phê bình cảnh quan, phê bình di dân, phê bình hậu cấu trúc, lý thuyết tiếp nhận, lý thuyết tự sự học, lý thuyết phân tâm học, lý thuyết hậu hiện đại, lý thuyết chấn thương, …Tuy nhiên, một hạn chế rõ rệt của hiện tượng này là chúng ta mới chỉ dịch thuật, sau đó ứng dụng các lý thuyết và khuynh hướng phê bình này trong nghiên cứu (mô hình phản ánh, mô hình diễn giải – chữ dùng của Trương Đăng Dung) chứ chưa đưa ra được những hệ hình tư duy lý luận văn học của riêng mình để soi chiếu văn học nước nhà. Bên cạnh đó, việc dịch và giới thiệu một cách hệ thống, bài bản các công trình mỹ học, triết học vẫn trong tình trạng manh mún, mạnh ai nấy làm.

2.1.1. Chính nhờ việc học hỏi này mà việc sáng tác của các nhà văn cũng có những thay đổi theo hướng tiếp cận văn học thế giới. Việc đa dạng hoá phương pháp sáng tác, đổi mới tư duy nghệ thuật đã và đang được các nhà văn quan tâm một cách sống còn. Từ những nhà văn, nhà thơ đầu tiên của thời kỳ đổi mới mà chúng tôi cho rằng họ là trụ cột và tiêu biểu của văn học Việt Nam đương đại như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Chu Lai, Lê Lựu, Dương Hướng, Nguyễn Duy, Lê Đạt, Mai Văn Phấn,…đến những nhà văn, nhà thơ sau này như Nguyễn Quang Thiều, Hồ Anh Thái, Trần Thuỳ Mai, Dạ Ngân, Bích Ngân, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Triều Hải, Nguyễn Ngọc Tư,… Chúng tôi liệt kê không đầy đủ và hy vọng nó phải là nội dung của một báo cáo dài hơi hơn.

1.2 “Chủ nghĩa tặng lại”: Văn học Việt Nam hướng ra thế giới – một trường hợp nghiên cứu văn học Việt Nam được giới thiệu ở Hoa Kỳ

Trong bối cảnh toàn cầu hoá, chúng ta phải có chiến lược đưa văn học Việt Nam hướng ra thế giới. Nói tóm lại là phải có chiến lược dịch văn học Việt Nam ra các ngoại ngữ mạnh (Anh, Pháp, Trung). Trường hợp Han Kang ở Hàn Quốc là một minh chứng sống động và truyền cảm hứng cho văn học Việt Nam chúng ta.

Văn học Việt Nam đương đại phải đảm nhận trách nhiệm là một sứ giả để mang văn hóa Việt Nam đến với thế giới. Nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã nói: “Tuy nền văn học của ta có những tác phẩm ngang tầm, nhưng chúng ta phải quảng bá. Thế giới không tìm đến ta như họ đã từng tìm đến những nền văn học của Mĩ, Nga, Pháp, Colombia, hay Trung Quốc. Mà chúng ta phải tìm đến họ, để một ngày họ nhận ra ở đó có những tác phẩm rất xứng đáng cho bạn đọc của họ cần phải đọc”[1]

Bản thân chúng tôi nhận thức điều này rất rõ khi nghiên cứu về các hiện tượng như truyện Kiều dịch ra tiếng Anh, Hồ Xuân Hương dịch ra tiếng Anh, và văn học thời kỳ đổi mới của chúng ta dịch ra tiếng Anh. Song song đó, các nghiên cứu về việc dịch văn học Việt Nam ra tiếng Pháp, Trung, Nhật, Nga, hay trong khu vực Đông Nam Á,… cũng là những mảnh nhỏ của bức tranh “hướng ra thế giới” mà văn học Việt Nam cần quan tâm. Có lẽ cần một hội thảo hay công trình đầy đủ hơn chăng?

Trong một bài viết cũ, chúng tôi có nhấn mạnh rằng việc hướng ra thế giới của văn học Việt Nam có đóng góp lớn về dịch thuật, nghiên cứu từ các nhà văn, dịch giả, nhà nghiên cứu gốc Việt. Ngoài những nhà nghiên cứu nước ngoài có hứng thú và tấm lòng với văn học Việt Nam như John Balaban (dịch ca dao Việt Nam, thơ Hồ Xuân Hương,…), Peter Zinoman (dịch Số Đỏ, nghiên cứu về Nhân Văn Giai Phẩm,…), Martin Secker (dịch tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh),… thì từ giữa những năm 1980, khi luồng gió Đổi Mới xuất hiện, giao lưu văn hóa, văn học giữa các nhà văn Việt Nam trong nước và hải ngoại bắt đầu khởi sắc, các nhà văn gốc Việt bắt đầu dịch sang tiếng Anh những tác phẩm của các nhà văn Việt Nam. Các dịch giả này thường thuộc thế hệ một rưỡi hoặc hai, họ cảm thấy việc giới thiệu văn học Việt Nam quá thiếu hụt ở Hoa Kỳ và ở châu Âu. Họ muốn thay đổi cái nhìn của các nước về Việt Nam. Ví dụ như Nguyen Quy Duc, cùng với John Balaban, đã dịch truyện của Hồ Anh Thái, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Quang Thân, Lê Minh Khuê,… xuất bản thành tập Vietnam: A Traveler’s Literary Companion (Việt Nam: Sổ tay văn chương của một lữ khách) năm 1996; cùng với Wayne Karlin và Trần Hoài Bắc, dịch truyện của Hồ Anh Thái thành cuốn Behind the Red Mist: Short Fictions by Ho Anh Thai (Trong sương hồng hiện ra: Truyện ngắn Hồ Anh Thái) năm 1998; cùng với George Evans dịch thơ Hữu Thỉnh. Trần Hoài Bắc, cùng với Wayne Karlin và Dana Sachs, dịch Lê Minh Khuê: The Stars, the Earth, the River: Short Stories by Le Minh Khue (Những ngôi sao, trái đất, dòng sông: Truyện ngắn Lê Minh Khuê) năm 1997. Ngo Vinh Hai, Nguyen Ba Chung, Kevin Bowen và David Hunt dịch A Time Far Past (Thời Xa vắng) của Lê Lựu năm 1997. Duong Van Mai Elliott dịch hồi ký Nguyễn Thị Định: No Other Road to Take: Memoir of Mrs. Nguyen Thi Dinh (Không còn đường nào khác: Hồi ký của bà Nguyễn Thị Định). Nguyễn Nguyệt Cầm cùng với Dana Sachs dịch Two Cakes Fit for a King: Folktales from Vietnam (Hai cái bánh là đủ cho một ông vua: Tuyển truyện dân gian Việt Nam), Crossing the River: Short Fiction by Nguyen Huy Thiep (Qua sông: Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp), ngoài ra bà còn cùng với chồng là giáo sư sử học Peter Zinoman dịch Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng,…

Trong lời giới thiệu tập thơ Hữu Thỉnh dịch ra tiếng Anh The Time Tree (Cây thời gian, 2003), Nguyen Quy Duc viết: “ việc dịch thơ Hữu Thỉnh cùng lúc với việc tôi tái phát hiện thơ ca, cả tiếng Việt và tiếng Anh, với một ham muốn giữa những nhà văn gốc Việt, là vẽ ra một Việt Nam, không phải chỉ là chiến tranh, mà là văn hóa, là một dân tộc tràn đầy đam mê, những rạn nứt, xung đột, và tình yêu. Việt Nam là một đất nước, với rất nhiều, rất nhiều câu chuyện”[2]. Nguyen Quy Duc dịch văn học Việt Nam với một thôi thúc là giới thiệu Việt Nam như là một đất nước chứ không phải một cuộc chiến, và chia sẻ với độc giả Mỹ về một nền văn hóa Việt Nam giàu có. Mặt khác, việc dịch của anh cũng là để thỏa mãn nhu cầu muốn hiểu những nhà thơ, nhà văn miền Bắc[3]. George Evans, người cùng dịch thơ với anh, thuộc quân đoàn y tế trước đây từng tham chiến ở Việt Nam, còn Hữu Thỉnh từng là nhà thơ quân đội, và lúc bấy giờ (thời điểm dịch thơ), là Tổng Biên tập báo Văn Nghệ, Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Cuộc gặp gỡ được Evans miêu tả hết sức thân thiện. Tuy vậy, vì dịch tập thơ này mà Nguyen Quy Duc đã bị cộng đồng Việt Nam chống Cộng tại Mỹ tẩy chay và phê bình. Anh kể lại trong một phỏng vấn rằng, khi anh được mời nói chuyện ở Đại học UC David về văn học Việt Nam và về tập thơ của Hữu Thỉnh, hàng trăm người biểu tình chống anh đứng ở ngoài, cầm cờ vàng ba sọc, hô khẩu hiệu gọi anh là “thân Cộng”. Nói như vậy để chúng ta hiểu và trân trọng những đóng góp của các nhà văn gốc Việt trong việc giới thiệu văn học Việt Nam trong nước ra nước ngoài, nhất là trong một môi trường rất phức tạp như cộng đồng di dân Việt Nam tại Hoa Kỳ.

Sau khi Hoa Kỳ phá bỏ lệnh cấm vận Việt Nam năm 1994, việc “hợp lưu” giữa những nhà văn gốc Việt và nhà văn Việt Nam càng nhiều hơn, nhất là khi thế hệ trẻ du lịch về Việt Nam càng nhiều, việc gặp gỡ với các nhà văn ở Việt Nam cũng dễ dàng. Năm 1995, tuyển tập truyện ngắn do Truong Vu, cùng với Wayne Karlin dịch sang tiếng Anh được xuất bản: The Other Side of Heaven: Post War Fiction by Vietnam and American Writers (Phía bên kia thiên đường: Tuyển tập truyện ngắn hậu chiến của các nhà văn Mỹ và Việt Nam). Tuyển tập bao gồm nhiều truyện ngắn của các nhà văn Việt Nam và Mỹ viết sau chiến tranh như của Nguyễn Mộng Giác, Andrew Lam, Lai Thanh Ha,… Năm 1996, Dinh Linh, cũng là một nhà văn thế hệ một rưỡi cừ khôi thông thạo tiếng Việt và tiếng Anh, đã tổ chức dịch tuyển tập truyện ngắn Việt Nam đương đại có tên: Night, Again (Lại đêm), trong đó, anh dịch khoảng một nửa tuyển tập. Cũng giống như Nguyen Quy Duc, mục đích của Dinh Linh là giới thiệu những hạt giống văn học tốt nhất, hay nhất của Việt Nam cho độc giả Mỹ, với lòng tự hào văn hóa và tự hào dân tộc. Đinh Từ Bích Thúy cùng với Martha Collins dịch hợp tuyển thơ Green Rice (Cốm Non) của Lâm Thị Mỹ Dạ. Năm 2008, Nguyễn Đỗ và nhà thơ Paul Hoover cũng dịch tuyển tập thơ ca Việt Nam sau 1956 có tên: Black Dog, Black Night (Chó mực, đêm đen). Cùng năm đó, Andrew X. Pham, với sự giúp sức của cha mình, dịch Nhật ký Đặng Thùy Trâm sang tiếng Anh với tên gọi: Last Night I Dream of Peace,…

Ngoài ra, cũng cần phải kể đến những nhà nghiên cứu đã viết các công trình liên quan đến văn học Việt Nam bằng tiếng Anh để giới thiệu văn học trong nước và văn học di dân Việt Nam cho độc giả Hoa Kỳ. Nổi tiếng nhất có lẽ là Huỳnh Sanh Thông (1926-2008), người đã có những đóng góp không mệt mỏi cho việc giảng dạy tiếng Việt, văn hóa và văn học Việt Nam cho người Mỹ. Ông đã soạn các sách dạy tiếng Việt, sáng lập tạp chí Vietnam Review. Nhưng đóng góp quan trọng nhất của ông là dịch những tác phẩm văn học Việt Nam như Lục súc tranh công, đặc biệt là Truyện Kiều sang tiếng Anh, bản dịch của ông được sử dụng nhiều nhất tại các trường đại học ở Hoa Kỳ.

Người thứ hai là lý thuyết gia về di dân và nữ quyền Trinh Minh Ha T. với một số đầu sách, phim về di dân và liên hệ với Việt Nam, bộ phim nổi tiếng của bà là Surname Viet, Given Name Nam (Họ tôi là Việt, tên tôi là Nam) phát hành năm 1985, hay phim Forgetting Vietnam (Lãng quên Việt Nam) năm 2015. Trong phim cũng như trong một số cuốn sách, bà tự xem mình như một “case study” (trường hợp nghiên cứu) về vấn đề di dân.

Viet Thanh Nguyen cũng là một điển hình cho nhà văn “hai tay hai súng”, vừa là một nhà văn nổi tiếng, đồng thời lại cũng là một giáo sư chuyên nghiên cứu về văn học di dân. Những công trình của ông tập trung vào văn học Việt Nam tại Hoa Kỳ như trường hợp Le Ly Hayslip. Ông còn có một cuốn sách viết về một số trường hợp văn học Mỹ gốc Á như Trung Quốc, Philippines và Việt Nam (trường hợp Le Ly được nhắc lại trong cuốn này). Đó là cuốn Race and Resistance: Literature and Politics in Asian America (Sắc tộc và sự kháng cự: Văn học và chính trị Mỹ gốc Á).

Isabelle Thuy Pelaud, giáo sư và nhà nghiên cứu, đã viết cuốn This Is All I Choose to Tell (Đây là những gì mà tôi chọn kể) giới thiệu về văn học di dân Việt Nam, đặc biệt là những nhà văn viết bằng tiếng Anh; cuốn Once Upon A Dream: Twenty Years of Vietnamese-American Experience (Giấc mơ ngày xưa: Hai mươi năm trải nghiệm Việt-Mỹ) năm 1995; tuyển tập văn chương của các nhà văn hải ngoại: Watermark: Vietnamese American Poetry & Prose (Dấu mờ: Thơ văn người Mỹ gốc Việt) năm 1998 hay những trang web giới thiệu văn học Việt Nam bằng tiếng Anh mà ở phần trước chúng tôi đã có đề cập đến.

Một đặc điểm quan trọng cho quá trình “hướng ra thế giới” đó là việc ngày càng nhiều nhà văn Việt Nam chọn lựa giao lưu, tham gia các trại viết, tự dịch các tác phẩm của mình ra tiếng nước ngoài; cũng như nhiều nhà văn hải ngoại quay về thường xuyên để giới thiệu sách của mình. Một bài viết cũ của chúng tôi cũng có đề cập đến hiện tượng này, đó là bài “Hiện tượng đi và về của các nhà văn đương đại Việt Nam”.

1.3 Văn học Việt Nam được sáng tác ở nước ngoài

Cùng với việc dịch các tác phẩm văn học Việt Nam sang các ngôn ngữ khác, sự phát triển của văn học Việt Nam ở nước ngoài cũng góp phần không nhỏ trong việc đưa văn hóa Việt Nam đến gần với thế giới. Việt Nam hiện nay có hơn 4,5 triệu người sinh sống ở nước ngoài. Đây là một cơ hội lớn để văn hóa Việt Nam được biết đến trong cộng đồng thế giới.Và đây cũng là đặc điểm của việc giao lưu và tiếp biến văn hoá. Không thể phủ nhận các nhà văn di dân Việt Nam tại nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những nhà văn dòng chính đã có những thành tựu và đóng góp nổi bật cho văn học các nước sở tại. Ba gương mặt nổi trội của văn học Việt Nam tham gia văn học dòng chính theo chúng tôi có lẽ là Viet Thanh Nguyen, Ocean Vuong (Hoa Kỳ) và Linda Le (Pháp). Họ là những nhà văn có tiếng tăm, được nhiều giải thưởng và có sức ảnh hưởng lớn. Ví dụ như Viet Thanh Nguyen được giải Pulitzer hạng mục tiểu thuyết; Ocean Vuong được giải TS Eliot, một giải thưởng văn chương quan trọng, danh giá của vương quốc Anh ngang với giải Pulitzer của Mỹ; Linda Le từng được vào chung khảo giải Goncourt 2012. Cả ba nhà văn này đều có tác phẩm dịch ra tiếng Việt, trong đó Linda Le được dịch nhiều nhất, Ocean Vuong cũng được dịch 3 tác phẩm.

Trường hợp ở Hoa Kỳ, mặc dù không thể so sánh với những nhà văn gốc Trung Quốc như Maxine Hong Kingston, Cáp Kim, Amy Tan hay Yiyun Li, nhưng văn học di dân Việt Nam cũng có những nhà văn dòng chính gia nhập văn học Hoa Kỳ từ rất sớm. Những tác phẩm đầu tiên của văn học Việt Nam di dân là những tác phẩm tự truyện hay hồi ký. Chúng đề cập đến những ký ức về quê nhà, chiến tranh, hay các trại tập trung. Năm 1982, cuốn sách mang hơi thở tự truyện đầu tiên của Huynh Quang Nhuong ra đời, The Land I Lost (Mảnh đất mà tôi đã mất), viết bằng tiếng Anh, nói về hồi ức của một cậu bé chăn trâu với 15 câu chuyện về thiên nhiên, cảnh vật, thú hoang,… Sau đó là những tác phẩm gây tiếng vang như của Le Ly Hayslip, Jade Ngoc Quang Huynh với cuốn South Wind Changing (Gió Nam đổi hướng), Quang X. Pham với cuốn A Sense of Duty: My Father, My American Journey (Cảm giác trách nhiệm: Cha tôi, Chuyến du hành Hoa Kỳ của tôi). Gần đây, còn có những nhà văn như Viet Thanh Nguyen, Monique Truong, Lai Thanh Ha,… đã được biết đến trong cộng đồng văn học Hoa Kỳ. Họ đã đạt được một số thành tựu như giải Pulitzer hạng mục tiểu thuyết 2016 cho cuốn The Sympathizer của Viet Thanh Nguyen, giải thưởng sách quốc gia Mỹ (National Book Award) hạng mục văn học thiếu nhi cho cuốn Inside Out & Back Again (Trong ngoài và quay trở về) của Lai Thanh Ha,…

3. KẾT LUẬN

Quá trình giao lưu, tiếp biến văn hoá trong văn học Việt Nam 50 năm qua nếu tổng kết đầy đủ sẽ là những bài học vô cùng quan trọng cho tương lai. Từ đó, chúng ta sẽ nhận ra được những cơ hội và thách thức. Từ 2025 trở đi, đây là cơ hội vàng để chúng ta chứng tỏ mình, nâng cao vị thế văn học Việt Nam trên toàn cầu. Điều này hoàn toàn khác với mười thế kỷ Bắc thuộc và một thế kỷ Pháp thuộc, đó là chúng ta hoàn toàn tự do, có ý thức về bản sắc và bản lĩnh trong quá trình giao lưu và tiếp biến. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều nguy cơ phải đối diện, ví dụ như quy mô kinh tế nhỏ, dễ dàng bị tác động bởi các nước khác; nguy cơ “loạn chuẩn văn hoá” chạy theo xu hướng, thị trường một cách nông nổi,…

Việc nhận diện những đặc điểm của quá trình giao lưu tiếp biến văn hoá trong văn học Việt Nam vừa là những tổng kết, vừa mở ra những hướng phát triển cho văn học trong chặng đường tiếp theo.

PGS-TS TRẦN LÊ HOA TRANH


TÀI LIỆU THAM KHẢO:

– Nguyễn Thanh Bình (Phỏng vấn Nguyễn Quang Thiều), Giới thiệu văn học và hình ảnh Việt Nam ra thế giới: Cần đi bằng cửa chính, chứ không phải lối thoát hiểm sau nhà, http://daidoanket.vn, 29/8/2014.

– The Time Tree: Poems by Huu Thinh, George Evans và Nguyen Quy Duc dịch, Willimantic, Conn., Curbstone Press, 2003.

– Nguyễn Thanh Tâm, “Văn học Việt Nam đương đại trong quá trình giao lưu văn hóa thời kì đổi mới và hội nhập”, Tạp chí Văn nghệ quân đội 21/4/2016.

– Trương Đăng Dung, “Những giới hạn của lý thuyết văn học nước ngoài tại Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa Nghệ An 28/3/2017

– Trần Lê Hoa Tranh, Văn học di dân – Phác thảo văn học nữ di dân Việt Nam tại Hoa Kỳ, Nxb Phụ nữ 2019.


[1] Nguyễn Thanh Bình (Phỏng vấn Nguyễn Quang Thiều), Giới thiệu văn học và hình ảnh Việt Nam ra thế giới: Cần đi bằng cửa chính, chứ không phải lối thoát hiểm sau nhà, http://daidoanket.vn, 29/8/2014.

[2] The Time Tree: Poems by Huu Thinh, George Evans và Nguyen Quy Duc dịch, Willimantic, Conn., Curbstone Press, 2003, tr.31.

[3] Cũng nói thêm, Nguyen Quy Duc là một nhà văn thế hệ một rưỡi đa tài, “hai tay hai súng”, viết văn, làm thơ bằng cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh rất giỏi, từng đạt giải văn học ở Mỹ, anh về sống tại Hà Nội và mất năm 2023 tại đây.