Nhà văn Nguyễn Bản không phải thày dạy học của tôi. Song có thể nói ông là bậc thầy…
Năm 96, tôi gặp ông lần đầu tiên ở Nhà xuất bản Hội nhà văn, khi nhà văn Nguyễn Thị Anh Thư, trân trọng là nhà văn đàn anh Nguyễn Bản! Tôi bắt chặt bàn tay không nhỏ, dầy, ấm, khi thấy ở đôi mắt nho nhỏ kia sáng lên cái nhìn thân thiện. Thầm nghĩ, ô hay, Nguyễn Bản, tác giả ánh Trăng đây ư? ở Đức, khi đọc ánh trăng, truyện ngắn đoạt giải Ba trong cuộc thi 1992 trên Tuần báo Văn nghệ, tôi cứ nghĩ, tác giả chỉ tứ tuần. ánh trăng – câu chuyện tình lãng mạng, day dứt, ám ảnh da thịt mỹ miều dưới trăng hay một tuổi trăng từ thuở học trò với một người đàn bà đẹp, là áng văn toàn bích tạo nên từ sự khao khát yêu đương còn mãnh liệt, sao có thể của một người già đến như thế?
Hóa ra, chúng tôi là hàng xóm với nhau trong làng Ngọc Hà.
Làng rày, chuyện nay còn ghi lại ở đền thiêng Đống Nước, xưa vua nhà Lý và Trần, trước khi đi đánh giặc đều ghé thuyền tấp qua gò đất, nhờ cô gái thôn dã, thần thiêng phù trợ… Sông xưa đã lấp, bồi lên làng hoa Ngọc Hà, qua nhiều thế kỉ đã bước vào văn chương với những cô gái gánh hoa. Hoa Ngọc Hà trở nên một nét trong tâm thức văn hóa Hà Nội xưa và, thời nay lại là làng quy tụ nhiều văn nhân, lắm nghệ sĩ thành danh như nhà thơ Nguyễn Phan Hách, cố đạo diễn Lê Mạnh Thích, vợ chồng nghệ sĩ điện ảnh nổi tiếng một thời Ngọc Lan, Ngô Mạnh Lân v.v… Nhà văn già Nguyễn Bản cũng âm thầm ẩn tụ ở đấy hơn chục năm nay, sau bao năm trôi nổi, về sống một mình trong căn nhà nhỏ hộp một tầng, mặt bằng 24 m2, xây nên từ tiền nhuận bút. Khách tới, ông tiếp chuyện sát cái bàn viết đầy tự điển và chồng truyện tiếng Anh. Cái bàn nước ép sát tường, dăm tách nhỏ cáu ám màu trà, kế bên là tủ sách cũ. Trên nóc bếp và khu vệ sinh là xép đựng sách vở, tài liệu, cất giữ cả những tờ Văn học in truyện Nguyễn Bản từ thập kỉ sáu mươi. Những tờ báo đã chuyển sắc vàng, dễ vỡ, rơi ra những hạt chữ, nếu người xem không cẩn trọng nâng niu.
Ở Ngọc Hà, ông và tôi hay dùng cơm với nhau, cùng nhìn ra cái vườn bốn mùa đầy hương mộc, hương cau và ăm ắp tiếng chim. Những bữa cơm với rau sạch, thịt nạc rim tiêu, vài chén rượu thơm ngon, đủ cho những câu chuyện bất tận về văn chương, bao nhiêu thăng trầm đời ông: một người chỉ dạy văn và viết văn, sống đúng nghĩa người trí thức, làm thầy, là nhà văn có tấm lòng, suốt đời sống với ngòi bút sạch trong.
Học trò thày Bản nhiều người sau này là giáo sư, tiến sĩ. Kỉ yếu trường Hàn Thuyên, nơi nhiều vị giáo sư từng là học trò ông, còn ghi: Thầy Nguyễn Bản là người có nhiều ảnh hưởng đến sự trưởng thành của chúng ta. Nguyễn Bản kể cho tôi chi tiết này và ông rất cảm động. Ông nói, hồi ấy khi dạy cho học trò về tính ngay thẳng, trung thành, yêu tổ quốc và cách mạng, ông đã dẫn nhiều thơ Phùng Quán, đặc biệt đem giảng chính khóa bài Lời mẹ dặn và, tất nhiên ông gặp sự oan khiên, bởi sự đó khi ấy khó tránh được, nay được chính học trò Hàn Thuyên ngày ấy đã trưởng thành giải oan cho.
Cuối 2011, tôi đi Huế thăm nhà văn Nguyễn Quang Hà, nguyên Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vang bóng thời đổi mới, người đoạt giải Nhì với Vùng lõm ở cuộc thi tiểu thuyết 2006-2009. Khi hỏi về thầy cũ, Nguyễn Quang Hà nói: “Thầy Bản dậy tôi không nhiều giờ, dù bao nhiêu năm, tôi vẫn nhớ những tiết học rất hay, rất quyến rũ tụi tôi khi ấy. Chính ông chứ không ai khác, đã khơi dậy ở tôi tình yêu văn học sâu đậm, lòng trung thành với quê hương, đất nước, để tôi không dứt nổi văn học. Tôi ơn thầy…“ Hơn nửa thế kỉ, ấn tượng những tiết học và Thầy văn cất dấu trong tâm khảm anh học trò, nay là nhà văn hon 70 xuân, bừng sáng như ánh mắt tuổi trẻ, khi kể về thầy mình! Thật hạnh phúc và cao quý!
Những ngày ở Ngọc Hà, chúng tôi cũng hay đàm luận về văn chương thế giới. Khi nghe ông bàn việc đọc văn và viết, nói về các tác giả kinh điển và hiện đại, mặc dù bỏ ra mười năm không viết một chữ, chỉ đọc sách, tôi cũng phải ngả mũ kính trọng ông qua nhiều kiến thức sâu, trí nhớ trác tuyệt và khả năng thẩm thấu tinh tế. Ông đúng là bậc thầy, tôi là trò. Ông nói về từng tác phẩm với các chi tiết cụ thể. Làm rõ hơi khí từng nhà văn, không chỉ là mẹo luật của nghề, mà còn rõ ra sự đồng điệu của ông ở chỗ nào với các nhà văn thế giới Pháp, Đức, Anh và Mỹ. Ai, tác phẩm nào, nhân vật hay đoạn văn nào, toát lên cái tình yêu con người, nhân loại, điều mà theo ông, bất cứ dạng thức văn học nào, mới hay cũ, bất cứ thuộc dân tộc nào, cũng cần phải đạt để tới nhân loại.
Kiến thức uyên bác, sâu hậu, lại sinh ra trên vùng văn hóa Kinh Bắc, nơi có truyền thống, cất dấu nền văn hóa tộc Việt lâu đời kể trên, đã hun đúc nên một Nguyễn Bản – một người thầy nhân học. Cũng không chỉ là học, dạy học mà còn cả sự hành.
Truyện ngắn Nguyễn Bản từ năm 61, bắt đầu từ lòng thương cảm, chia sẻ với một cô gái điếm trên sân ga. Giá trị mới, tác phẩm đầu tay rất nhân ái, đi trên Văn học số 89-1961 đã được Nhà xuất bản ngoại văn Hà Nội dịch ngay ra tiếng Pháp, Anh, Nga. Từ đó, ông mải miết viết tay, theo đuổi sự hành, trình làng 8 tập truyện ngắn. Truyện ngắn Nguyễn bản có mặt trong nhiều Tuyển chọn văn học hay, trong Tổng tập 50 năm văn chương của nhiều nhà xuất bản uy tín. Những truyện ngắn như ánh trăng, Bức tranh màu huyết thạch, Chuyến ly hương cuối đời, Rừng đêm cuối năm hay Thời chuồn chuồn cắn rốn sáng tác gần đây đều là cái nhìn đầy chia sẻ, tràn ngập lòng yêu con người, khát khao hạnh phúc cá nhân. Nhiều trang văn của ông rất day dứt, ám ảnh. Văn ông đạt tới độ dung dị, chơi chữ tự nhiên, không lộ liễu, câu văn hiện đại, ngắn gọn mà hàm xúc. Không thoát ly cuộc sống, khi cần vẫn bầy tỏ thái độ, ngọn bút ông rất rõ ràng, chống lại cái ác trong xã hội. Song dù phê phán, thì văn Nguyễn Bản vẫn là thái độ điềm tĩnh của một trí thức lớn. Sâu đau, có khi chua chát mà không hậm hực xóc xách, đặc biệt ông không khi nào ám chỉ thô bạo. Văn ông nhiều thiên truyện nói về tình yêu trai gái. Nhiều đoạn, truyện đề cập tới sex. Những giai phẩm như Mùi tóc thảo, Cơn lũ (Giải thưởng báo văn nghệ) là sự treo sex tới sát ván, nhằm phát biểu về con người, tình yêu có sex mà không hề dung tục tầm thường. Sex của ông gợi và đẹp. Viết về tình yêu, đề tài trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Bản đều có ý thức: “bàn tới tình yêu mà né tránh hay vắng bóng tình dục, là thiếu đi một nửa cái đẹp, có điều phải dùng chữ nghĩa ra sao để sex tuy là cái cớ, hay là một nửa, nhưng vẫn phải là văn hóa!“ Điều đó đồng điệu với nhận thức ở thế giới phát triển, khi con người tiến hóa, tiến bộ thì tình dục, dù thuộc cái bản năng, cũng phải có văn hóa. Và, điều ấy trong dòng văn học Việt đương đại, Nguyễn Bản là bậc thầy.
Văn chương Nguyễn Bản nói chung khi mong manh như ánh trăng, khi ngầm dữ dội như Rừng đêm cuối năm, song dù hơi khí hay sự chuyện thế nào, ông vẫn làm cho bạn đọc đều thấy gần gũi. Nhân vật và sự chuyện, quen thuộc như da thịt của con người, nên truyện ngắn Nguyễn Bản thu hút đa giai tầng trong xã hội, càng đọc nhiều lần càng thú vị hay phát hiện thêm sự thú vị. ấy là sự hàm xúc, đa tầng của nghệ thuật hệ thống ngôn ngữ Nguyễn Bản. Đọc văn Nguyễn Bản, tỉ như khi ta nhâm nhi chén rượu quý, thưởng loại trà hương hạng nhất, có hương và vị dịu đậu, lâu bền.
Nguyễn Bản có vốn ngoại ngữ giỏi. Ông có bè bạn cùng thời như Nguyễn Xuân Khánh – Pháp văn, Lê Bầu – Trung văn, Phạm Toàn – Anh, Pháp văn, đều là lứa được giáo huấn cẩn thận, giao lưu hai ba nền văn hóa lớn. Tiếp tục là người thầy ở việc truyền bá văn học thế giới, suốt 15 năm tới nay, ông bỏ công dịch 15 đầu sách. Những cuốn kinh điển, người khác đã dịch, ông vẫn dịch lại, khá thành công như Ba người lính ngự lâm pháo thủ – Alexandre Dumas – Cha. Đỗ quyên đỏ là cuốn sách bán khá chạy, tái, nối bản nhiều lần. Nó được giới văn nghệ già, trẻ, ai từng đọc đều đánh giá cao. Mấy năm gần đây ông quan tâm và dịch liền tới 4 đầu sách của nữ nhà văn Mỹ gốc hoa Anchee Min. Ông có lý khi yêu nhà văn này, bởi văn chương của bà đạt tới độ rất tinh tế về tâm lí, ngào ngạt hương tình yêu, đặc biệt luôn đề cao tư tưởng giải phóng con người, nhất là phụ nữ. Sự giao cảm giữa văn hóa Đông Tây rất rõ ràng qua Anchee Min. Nhà báo Lan Anh và tôi từng nghe ông cao hứng dịch trực tiếp những áng văn của Anchee Min trên vài trang đã được ông đánh dấu cẩn thận, chi chít. Gian nhà nhỏ cũ kĩ, già nua, lành lạnh sớm mùa đông ấy, dường như run rảy theo tiếng đọc dịch khá biểu cảm của ông. Có lẽ văn chương muốn đạt ngưỡng về thẩm mỹ nhất định, nhất thiết phải cần Một tình yêu lớn với văn học, giống như khi hết lòng yêu một người đàn bà đẹp. Ngoài tuổi 80 rồi, lương hưu không đủ sống, bao nhu cầu trong mối quan hệ xã hội chằng chịt phức tạp, Nguyễn Bản ẩn mình xác lập tự do trong cô độc, âm thầm viết đêm ngày kiếm thêm thu nhập. Bữa ấy, trở về với trái tim nguyên vẹn trong khiết một tình yêu, một bậc thầy, ông lại say mê như trên bục giảng, giảng cho chúng tôi nghe điều hay, cái đẹp văn Anchee Min.
***
Tính cho tới nay, tôi làm bạn vong niên với ông chỉ gần hai chục năm. Tôi chưa khi nào thấy ông tức giận. Chuyện trò bao lần, với ông ngoài việc văn và dạy văn là miên man chuyện tình yêu. Thi thoảng lắm, ông cũng buồn phiền thoáng qua, tỉ như thở than việc trả nhuận bút với một người chỉ sống nhờ ngòi bút sao lắt léo quá. Nhà sách Phương Đông in tập Thời chuồn chuồn cắn rốn, người ta ghi cuối sách là in 2000 cuốn, ông phải đi đòi, lên tận Mai Thời Chính giám đốc Nhà xuất bản Thanh niên nhờ can thiệp nơi xuất bản đồng ý trả nhuận bút theo bìa sách, nhưng có 6 phần trăm. Ông là thày dạy yêu người, viết văn chứ không tường việc từ Nhà xuất bản Thanh Niên tới Nhà sách Phương Đông bán chác qua ai và ra sao, để ông nhận lại sự buồn phiền ngao ngán như thế. Mà cũng phút lát thôi, ông lại trở về roi rói chuyện yêu ở trang văn, chuyện khao khát một người đàn bà để ông yêu nữa, dù tới Nhâm Thìn này ông tựa rồng sang tuổi 83.
Mùa xuân tạm biệt Người thầy Nguyễn Bản, tôi ôm xiết người bạn văn vong niên và vô tình chạm phải cái cái lưng đã gù gù của ông. Tết Hà Nội, phố dài hun hút lạnh với dòng người hối hả, chen chúc, vui, buồn vội vã. Những gánh hoa cúc mơn mởn vàng cho người nghèo và những chậu hoa điệp lan vàng chanh, hoa modeln màu năm nay, giá cả năm sáu triệu trên ô tô bóng nhãy lởn vởn trong óc tôi. Chắc ông cũng nhìn thấy cả hoa Tết ở cái phố đầu ngõ làng hoa Ngọc.
Tôi hình dung ra, Nguyễn Bản một mình trở về nơi phòng ấy với cây bút và bàn viết, bên lọ hoa cúc trắng tinh khôi. Những bước chân khoan thai trên ngõ cổ Ngọc Hà, giữa đám đông người vồi vội ngược chiều…
Hà Nội mồng Một Tết Nhâm Thìn
Nguyễn Văn Thọ