I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
– Nguyễn Trung Ngạn (1289 – 1370) tự là Bang Trực, hiệu là Giới Hiên, người làng Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi (nay là huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên).
– Năm 16 tuổi, ông đỗ Hoàng Giáp
– Khoảng năm 1314-1315, ông được cử đi sứ sang đáp lễ nhà Nguyên.
– Ông làm quan đến chức Thượng thư, còn để lại tác phẩm Giới Hiên thi tập.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác
– Bài thơ được sáng tác khi Nguyễn Trung Ngạn đang đi sứ ở Giang Nam (Trung Quốc)
b. Bố cục (2 phần)
– Hai câu đầu: Nỗi nhớ quê hương
– Hai câu sau: Lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc
II. Tìm hiểu chi tiết
1. Nỗi nhớ quê hương (2 câu đầu)
– Nỗi nhớ rất cụ thể, dân dã làm nổi lên gốc gác đồng quê, nghề trồng dâu nuôi tằm, nghề trồng lúa và sinh hoạt đạm bạc “cua béo ghê”. Đời thường hiện lên trong cảm xúc nhà thơ. Cái cốt lõi của cảm xúc ấy là lòng yêu quê hương xứ sở. Cách nói mộc mạc dễ làm rung động lòng người.
– Tình yêu quê hương bắt nguồn bằng những hình ảnh gợi nhớ. Đó là dâu tằm, là hương thơm đồng lúa, là cua cá trên đồng, dẻo thơm ngọt ngào trong bữa cơm quê.
2. Lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc (2 câu cuối)
– Dẫu rằng nghèo khó vẫn là quê hương hơn danh vọng ở nơi chốn hoa đô hội.
– Tác giả sử dụng hình thức so sánh: “Đất Giang Nam tuy vui, cũng chẳng bằng về nhà”. Giang Nam tuy vui nhưng là nơi đất khách quê người => Tiếng gọi trở về tha thiết, khắc khoải trong lòng kẻ xa quê.
III. Tổng kết
1. Giá trị nội dung
– Lòng yêu quê hương đất nước, niềm tự hào về dân tộc là cảm xúc chủ đạo của bài thơ quy hứng.
– Bài thơ giúp người đọc ý thức một chân lí: không gì bằng quê hương xứ sở của mình; giúp ta thêm yêu, thêm quý nơi mình sinh ra, lớn lên và trưởng thành.
2. Giá trị nghệ thuật
– Cách nói chân thật, giản dị
– Sử dụng hình ảnh giàu sức gợi.