Là nữ thi sĩ, thật tự nhiên, Xuân Quỳnh có một quan niệm riêng về giá trị cũng như hạnh phúc của người nữ, trong cái nhìn tổng quan của chị về những giá trị sống, giá trị thơ ca, cũng như cuộc đời. Không vờ như không biết tới vị thế giới nữ của mình để hướng tới một cảm quan chung chung về con người, một tinh thần nhân loại quan liêu, Xuân Quỳnh thông qua những vui buồn day dứt của một người phụ nữ Việt Nam để khắc họa sâu xa hơn những giá trị mà chị cho là tinh tuý của con người. Cá tính cứng cỏi, mạnh mẽ, trái tim độ lượng vị tha và một thẩm mỹ cổ điển nhưng luôn cởi mở, hướng tới sự khai phóng, đã kết tinh trong thơ Xuân Quỳnh dòng cảm hứng nữ quyền tự nhiên, vừa gần gũi với những tiêu chí nữ quyền đương đại đồng thời mang vẻ đẹp riêng tư sâu sắc.
***
Trong bối cảnh cuộc sống bất an, hoang tàn, đổ vỡ… trong chiến tranh và thời hậu chiến, Xuân Quỳnh ý thức hơn bao giờ hết, lẽ phải chính là tình yêu thương, vị tha, nâng đỡ và hàn gắn để cùng che chở, vực dậy sự sống còn, tồn tại. Từ bản năng yêu thương, đùm bọc của người phụ nữ, người mẹ, Xuân Quỳnh nâng bản năng ấy thành một kiểu giá trị đạo đức, và sâu xa hơn, là giá trị chân thiện tối cao của cuộc đời. Nói khác đi, với Xuân Quỳnh, là phụ nữ tức là đại diện cho “lẽ phải”, cho lòng tốt, những điều nâng đỡ và níu giữ cuộc đời khỏi huỷ diệt, đổ vỡ, đắng cay. Điều mà hầu như thảy những người còn lại đều phải trau mình, gắng sức mới có được, thì với người nữ, sinh ra là đã mang phẩm chất ấy.
Trong mỗi giây phút hay biểu hiện của cuộc đời, chị đều muốn yêu thương, chở che, làm cho sự vật tốt lành, đẹp đẽ hơn lên.
Người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh tha thiết, hối hả nhắc chồng, con, những người thân yêu… về sức khoẻ và sự an toàn:
Sao không cài khuy áo lại anh
Trời lạnh đấy, hôm nay trời trở rét…
hay:
Trời mưa lạnh tay em khép cửa
Em phơi mền vá áo cho anh
Tay cắm hoa, tay để treo tranh
Tay thắp sáng ngọn đèn đêm anh đọc
Năm tháng đi qua mái đầu cực nhọc
Tay em dừng trên vầng trán lo âu
Người phụ nữ bươn chải trong đạn bom khốc liệt, trong khô hạn, bão lụt, để sẻ chia nguy nan, gánh nặng với người thân, bạn bè, đồng đội:
…Giữa gió cát, giữa những ngày ác liệt
Tôi nghĩ về tha thiết một màu xanh
Một rừng cây trĩu quả trên cành
Tôi vun gốc và tay tôi sẽ hái…
(Gió lào cát trắng)
Xuân Quỳnh nhắc đến những thiên chức của người nữ, là mẹ, là bà… một cách cẩn trọng, thiêng liêng, mà cũng thực là gần gũi, hóm hỉnh:
Xuân Quỳnh là người phụ nữ có tham gia chiến tranh. Cũng tương tự như nhà thơ Dương Thị Xuân Quý hay bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm, hai liệt sĩ đều được người đời sau tôn xưng là anh hùng. Họ đi vào cuộc chiến nhưng là để phục vụ lý tưởng vị tha và tình yêu.
Xuân Quỳnh có khuynh hướng tìm đến một thế giới quan xuất phát từ tình yêu thương. Trong bất kỳ bài thơ nào, chị cũng thoải mái, tự tin bộc lộ tình yêu đối với mọi người mọi vật. Xuất phát từ chính khả năng yêu thương chủ quan, để định hướng những giá trị còn lại của cuộc đời.
Từ niềm tin hồ hởi, tươi sáng mà chị chủ động khám phá, cắt nghĩa:
Cho tới mối ưu tư, âu lo thường trực, ám ảnh về sự sống, đời sống, tình yêu:
Không phải con người biết chủ động lãnh nhận mối âu lo tồn vong, lãnh nhận trách nhiệm duy trì tình yêu, duy trì niềm vui và hạnh phúc cho cuộc đời, sẽ không có những câu thơ trĩu nặng yêu thương đến thế.
Xuân Quỳnh không lo lắng cho bản thân mình, một ngày nào đó sẽ gặp phải bất hạnh, đau khổ. Chị suy tư, day dứt cho một quan niệm mang tính chất lý tưởng về tình yêu, cũng như tồn tại, vượt lên thân phận, mất còn nhỏ bé của từng cá nhân, tìm đến sự trấn an trong cái bền vững, vô hạn có tính chất thiêng liêng, cao cả.
Ngay cả khi điều đó chỉ là một ảo tưởng và chính nhà thơ cũng biết rõ ấy là ảo tưởng, thì người đọc cũng nhận thấy trong thơ chị một cảm thức hướng tới cái lớn lao, như là trách nhiệm tự nhiên, hào hiệp đối với việc xây đắp những giá trị chân thiện, cũng như cái đẹp của đời sống, con người, mà không phải người làm thơ nào cũng có được.
Xuất phát từ nữ tính, từ lòng vị tha, Xuân Quỳnh đi tới sứ mệnh của người yêu thương, gìn giữ và cao hơn nữa, sứ mệnh của người kiếm tìm, minh định ý nghĩa đời sống. Không chút mặc cảm thân phận, người nữ trong thơ Xuân Quỳnh khảng khái xây đắp và bộc lộ những giá trị riêng, không chỉ của giới nữ mà còn của cuộc đời nói chung. Không chỉ yêu thương, gìn giữ mà còn đóng vai trò sáng tạo chân lý.
* * *
Người phụ nữ như Xuân Quỳnh viết thơ tình, không chỉ để giãi bày cảm xúc yêu đương. Tình yêu cũng là lĩnh vực để chị suy tư, day dứt, kiếm tìm những giá trị của bản thân và thông qua đó hướng tới giá trị của cuộc đời cũng như sự sống. Tình yêu với giới nữ được chọn làm nơi biểu lộ chữ tín và cái đẹp lý tưởng hoá.
Cũng trong tình yêu, trong đời sống hôn nhân, Xuân Quỳnh ý thức rõ ràng về sự thua thiệt của giới nữ mà những định chế, sự thành kiến của xã hội mang lại:
Chị không giấu giếm bản chất si mê, dám khổ lụy vì tình yêu:
Chị cũng cảm thấy mình cô đơn, nhỏ bé, yếu đuối, như bất kỳ sinh linh nào, kể cả người nam. Và điều Xuân Quỳnh mong mỏi ở đây là sự tương trợ, chia sẻ, yêu thương giữa hai cá thể độc lập, cùng tự tôn và kiêu hãnh với giá trị riêng chứ không phải sự gia ân hay ban phát:
(Bàn tay em)
(Thuyền và biển)
Câu thơ Xuân Quỳnh rạng rỡ ấm áp khi nói tới niềm vui chung sống lứa đôi:
(Nói cùng anh)
(Bầu trời đã trở về)
Là nhà thơ, Xuân Quỳnh hiểu được ý nghĩa lấn át, gần như tuyệt đối, của thế giới tâm tưởng đối với người viết:
(Hoa cúc xanh)
Chị hiểu sự gắn bó của hai tâm hồn trong tình yêu là gắn bó của những giá trị chung mà cả hai phía cùng vun đắp, là sẻ chia rung động, âu lo, sẻ chia lý tưởng:
(Nếu ngày mai em không làm thơ nữa)
Tình yêu gắn liền với che chở và vị tha đã đem lại cho Xuân Quỳnh cuộc sống hạnh phúc bên tình yêu lớn của đời chị, nhà thơ Lưu Quang Vũ. Còn hơn thế, chị đã đón nhận Lưu Quang Vũ giữa thời điểm “tan nát, kinh hoàng”, đem lại cho con người phiêu bạt “luôn mắc nợ những chuyến đi, những giấc mơ điên rồ những ngọn lửa không có thật” một cuộc sống thăng bằng, ấm áp, tin cậy, góp phần quan trọng để Lưu Quang Vũ tiếp tục là nhà thơ cũng như bộc lộ tài năng sáng chói trên sân khấu kịch sau này.
Bản tính chất phác, nồng hậu và hơi giản đơn khiến cho chị thường có xu hướng tìm đến cái ổn định, một niềm tin chắc chắn vào “lẽ phải” của sự hy sinh, vị tha trong tình yêu cũng như cuộc đời:
(Thơ tình cuối mùa thu)
(Hoa cúc)
(Mùa hạ)
Nhưng cũng chính ứng xử đẹp, sự tín nghĩa và lòng hy sinh vô điều kiện cho tình yêu ở Xuân Quỳnh từ phương diện nào đó làm cho tình yêu trở thành sự giam cầm và nỗi thất vọng. Nếu Xuân Quỳnh tin chắc vào ý nghĩa trường cửu, vô biên của tình yêu, nếu quả đúng “lòng tốt để duy trì sự sống” thì điều này lại không hẳn đóng vai trò quyết định trong say mê luyến ái. Chị không giấu giếm những đổ vỡ:
(Không đề II, Viết cho Vũ)
(Anh)
Chẳng có gì để em nói về em
Đổ vỡ trong tình yêu của Xuân Quỳnh phần nào nói lên “thất bại” cục diện trong tư tưởng nữ quyền của chị. Nếu lòng tốt có thể đồng nghĩa với lẽ phải và chân lý, thì chân lý này dường như phải dừng bước trước cái bí ẩn trớ trêu của luyến ái. Quan niệm rốt ráo của nhà thơ về tình yêu, như một giá trị chân thiện của đời sống, chỉ đúng một nửa: “nguồn gốc của muôn ngàn khát vọng/ Lòng tốt để duy trì sự sống/ Cho con người thực sự người hơn”. Tình yêu trong bản chất sâu xa của nó là nhân tính, cao thượng và vị tha, nhưng cũng bao hàm cả khía cạnh vị kỷ. Khi mỗi người đều tự nguyện hy sinh và cũng đồng thời được thoả mãn cao nhất cá nhân mình.
Ngoài đời thực, Xuân Quỳnh là người đàn bà đẹp và được yêu, nhưng ít khi chị thể hiện lòng tự tôn về điều này trong thơ. Lòng kiêu hãnh ấy chỉ bộc lộ gián tiếp thông qua tâm trạng đắm đuối, dốc lòng của chị khi đến với luyến ái: chị đã được yêu, luôn mong muốn và hoàn toàn xứng đáng để được yêu đáp trả lại cũng nồng nàn như vậy.
Một trong những nội dung quan trọng của tư tưởng nữ quyền trên thế giới những năm 1960 là xoá bỏ những định kiến đối với giới nữ về mặt tính dục và tình dục, trả lại vị thế chủ động của người nữ trong những lĩnh vực đó. Mặc dù thơ Xuân Quỳnh còn chưa chính thức động chạm tới lĩnh vực cảm xúc nhục thể trong tình yêu nhưng người đọc vẫn có thể cảm nhận bàng bạc, lan toả trong những lời thơ say đắm si mê của chị sức mạnh, ẩn ức mãnh liệt của nhục thể. Nó hoàn toàn có thể có chung nguồn gốc với năng lượng của tính nữ mạnh mẽ tràn đầy trong con người nhà thơ.
… Những hoa này lại nở cho triền núi
(Hoa dại núi Hoàng Liên)
… Không tìm đâu một chỗ nương nhờ
(Chuồn chuồn báo bão)
Dù có những tương đồng để liên tưởng tới thân phận người nữ, nhưng những ẩn dụ này trong thơ Xuân Quỳnh không hẳn để ám chỉ ý thức về sự lạc loài, bạc mệnh mang phẩm chất giới nữ. Nó có thể là ám ảnh về nỗi cay đắng và bị phụ bạc nói chung của phận người, sự đổ vỡ của cảm thức tin yêu, nồng hậu trước logic thực dụng tàn nhẫn của đời sống, sự vỡ lẽ một ảo tưởng bền lâu.
Nếu thơ Xuân Quỳnh đậm đà, chan chứa ý nghĩa trữ tình, tự tình theo cảm thức cổ điển, dù có lối biểu đạt thông minh và hóm hỉnh nhưng chưa thực nhiều giá trị suy tưởng, thì chính trong những bài thơ mang dư vị cay đắng này, người đọc nhận thấy tinh thần phê phán sắc sảo của chị. Dù Xuân Quỳnh phê phán chưa mãnh liệt bằng yêu thương.
Dấn thân quyết liệt để kiếm tìm giá trị của đời sống, của tình yêu, cũng là giá trị cá nhân khi khám phá những “chân lý” rộng lớn hơn tồn tại của một con người đơn lẻ, Xuân Quỳnh đã luôn trung thực với những gì riêng chị nhận thức và tin theo. Dù có đổ vỡ, đắng cay, nhưng Xuân Quỳnh chưa bao giờ chùn bước hay nao núng tâm thế trực diện và tự mình lãnh nhận, chứng nghiệm tất thảy sóng gió, truân chuyên, nghịch lý của cuộc đời. Có thể có những điều chị chưa kịp hay chưa đủ vốn liếng để lý giải trọn vẹn. Nhưng năng lực nhận thức một cách độc lập, bản năng mãnh liệt cuốn phăng mọi giáo điều định kiến, sự cả tin và trả giá cho lòng tin cũng như phương cách sống riêng mình, lòng tự tin vào tính nữ, cũng là tự tin vào bản thân, tất thảy bộc lộ con người trong tâm thế chủ động, khai phóng và đích thực tự do, bất kể mọi khuôn mẫu, thành công hay thất bại, bất kể cả những quan niệm được định hình về “nữ quyền”.
Người nữ lớn lao và bình quyền, trước hết là người nữ sống trọn vẹn thiên tính và phẩm giá của mình, trung thực với khát vọng, ham muốn hay bản tính tự nhiên mà không mấy bận tâm đến các hình mẫu, khuôn thước từ bên ngoài. Cho dù đó có là những tiêu chí về “nữ quyền” hay sự “được ưu đãi ngang bằng với nam giới” đi chăng nữa. Bởi vì mọi tiêu chí đều là tương đối và nhất thời, chỉ có con người là thật sự tự do và lớn lao mà thôi.