Hơn 100 năm về trước, tại Paris, có một cuốn sách nguyên bản tiếng Pháp Les Enfers Bouddhiques: Le Bouddhisme Annamite ra đời là kết quả của chuyến chu du đầy suy tư qua những ngôi chùa Việt Nam của 2 tác giả người Pháp. Với những lời văn thâm trầm triết lý, cuốn sách phần nào phản ánh đời sống văn hóa, tâm linh của người dân bản xứ thời kỳ đầu thế kỷ 20, đặc biệt là những gì họ hình dung và tin tưởng vào một thế giới sau cái chết.

I. Từ cuộc ‘đàm đạo’ trăm năm trước về chùa Báo Ân

1. Vừa qua, nhân dịp ra mắt bản dịch tác phẩm Các tầng địa ngục theo Phật giáo của 2 tác giả người Pháp: Léon Riotor và G. Leofanti, Công ty Văn hóa & Truyền thông Nhã Nam phối hợp với Viện Pháp tổ chức buổi tọa đàm Địa ngục trong tâm thức người Việt để giới thiệu đến bạn đọc những vấn đề khác nhau liên quan đến các tầng địa ngục trong triết học và văn hóa Phật giáo.

Tọa đàm có sự tham gia của TS Trần Trọng Dương – nhà nghiên cứu Hán Nôm, cổ sử Việt Nam và TS văn học Mai Anh Tuấn.

Với hơn 20 năm điền dã tại nhiều chùa chiền khắp nơi từ Bắc chí Nam, TS Trần Trọng Dương nêu ra một băn khoăn của khá nhiều người rằng: Chùa là nơi để tìm đến sự an lành nhưng lại hiện hữu vô vàn hoạt cảnh rùng rợn, muôn kiểu trừng phạt được khắc vẽ qua những tầng địa ngục trùng trùng, lớp lớp bằng các phương thức tạo hình khác nhau từ điêu khắc, đắp nổi cho đến phù điêu, tranh vẽ… Những tác phẩm giống như cuộc sắp đặt nghệ thuật sống động tại không gian linh thiêng, làm cho những người đi chùa đang muốn hướng đến sự thanh tịnh phải giật mình…

Trong tình cảnh tương tự, 2 tác giả người Pháp: Léon Riotor và G. Leofanti cũng với tâm thế vừa tò mò, vừa ghê sợ khi lần đầu tiên đến Việt Nam, đặt chân đến chùa Báo Ân bên Hồ Gươm sau những trận chiến vào những năm 1883 – 1884. Cho đến nay, di tích của ngôi chùa Báo Ân xưa còn sót lại chỉ là tháp Hòa Phong.

Theo TS Trần Trọng Dương, vào thế kỷ 19, quần thể chùa Báo Ân là một trong những công trình kiến trúc và điêu khắc nổi tiếng của Hà Nội, được nhiều học giả người Pháp ghi chép và chụp ảnh. Chùa Báo Ân do tổng đốc Nguyễn Đăng Giai – một vị công thần của Bắc Kỳ vào giai đoạn đó quyên tiền dân cho xây dựng. Trong chùa Báo Ân có khắc họa những hoạt cảnh bích họa Phật giáo, những hình phạt tra tấn khổ hình ở thế giới bên kia (cảnh Thập điện Diêm vương) nên người Pháp gọi chùa Báo Ân khi đó là chùa Nhục Hình hay chùa Khổ Hình.

2. Vào năm 1884, bác sĩ Hocquard, y sĩ trưởng (médecin major) trong đoàn quân viễn chinh Pháp đã chụp một serie ảnh chùa Báo Ân và đăng tải trên nhiều phương tiện khác nhau.

Từ những tài liệu ghi chép và hình ảnh đó, 2 tác giả người Pháp đã lần theo để đến chùa Báo Ân và thực hiện một cuộc du ngoạn văn hóa. Có lẽ, “khi tiếp xúc với ngôi chùa, 2 tác giả đã ngỡ ngàng bởi một nền nghệ thuật đa sắc cạnh từ kiến trúc cho đến điêu khắc, đồ họa, tượng pháp… và đối tượng mà họ hướng đến chính là những hoạt cảnh Phật giáo”.

“2 người Pháp không biết tiếng Việt muốn hiểu về Phật giáo Việt Nam khi đó, phải làm cách nào? Trước tiên phải qua thông ngôn. Theo ghi chép trong cuốn sách, người xuất hiện trong cuộc gặp gỡ là một vị quan – một vị quan người Việt đứng ra bắc cầu kết nối 2 người phương Tây với vị sư chùa là Nguyen – Thanh – Giem (tên riêng, ghi theo tiếng Pháp), người gốc Hải Dương. Họ hẹn và khảo sát bằng cách phỏng vấn, nhờ các vị sư chỉ dẫn đến từng bức điêu khắc để giảng giải về 10 tầng địa ngục” – TS Trần Trọng Dương mường tượng.

Cuốn sách Các tầng địa ngục theo Phật giáo chia thành 5 phần, nhưng thực chất chỉ có phần IV và V là miêu tả trực diện về các hoạt cảnh địa ngục Thập điện Diêm vương tại chùa Báo Ân. Chương I, II và III là ghi chép những khảo tả của 2 người Pháp về các tầng địa ngục theo hiểu biết của tác giả.

“Tức là họ có sự chuẩn bị trước khi đến chùa Báo Ân, họ đã phải đọc qua những loại sách, những loại lý thuyết khác nhau về hình ảnh địa ngục ở Đông Á, đặc biệt là qua tài liệu tiếng Pháp về địa ngục trong văn hóa Ấn Độ” – TS Trần Trọng Dương chia sẻ..

Có thể nói, Các tầng địa ngục theo Phật giáo là chuyến chu ngoạn đầy suy tư qua những ngôi chùa Việt Nam của 2 tác giả người Pháp Léon Riotor và Léofanti. Họ “phỏng vấn” và đàm đạo với các sư trụ trì tại đây về “địa ngục” theo Phật giáo, và được các nhà sư dùng kiến thức triết học, tôn giáo cùng những truyền thuyết của xứ sở để thuyết minh cặn kẽ cho các tranh vẽ về địa ngục trên tường chùa.

II. Tư liệu quý ‘lách’ vào thế giới tâm linh người Việt

Theo các nhà nghiên cứu, cuốn sách Các tầng địa ngục theo Phật giáo của Léon Riotor và G. Leofanti có một vai trò đặc biệt khi đi vào khía cạnh siêu hình của Phật giáo, đi tìm nhận thức, quan niệm, hình dung của người Việt về địa ngục. Khía cạnh này tưởng là nhỏ nhưng rất quan trọng vì đã “lách” vào thế giới tâm linh của người Việt Nam”.

1. Đó là sự khác biệt so với các cuốn sách khác trong khối tư liệu Pháp về Đông Dương cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Bởi như lời TS Mai Anh Tuấn, tư liệu Pháp về Đông Dương phần lớn là tiếp cận Việt Nam trên nhiều khía cạnh lớn, những khía cạnh có thể kiểm chứng và xác thực được, ví dụ về địa lý, về chính trị, về xã hội. Đó là những khía cạnh hiện hữu vật chất.

Cũng theo vị tiến sĩ này, xét về mặt tư liệu, Các tầng địa ngục theo Phật giáo của hai tác giả người Pháp dù ngắn nhưng có thể bổ sung một cái nhìn toàn diện hơn về đời sống xã hội, đời sống tinh thần tâm linh của người Việt đầu thế kỷ XX.

Đọc Các tầng địa ngục theo Phật giáo có thể thấy các tác giả không đơn thuần kể lại câu chuyện qua việc đối thoại với một vị thiền sư ở chùa Báo Ân để hình dung về thế giới địa ngục. Xa hơn, họ ghi lại những giá trị tư liệu về chùa Báo Ân qua những mô tả về kiến trúc, mỹ thuật, sinh hoạt tín ngưỡng tại đây. Những giá trị tư liệu này đặt trong sự biến mất của chùa Báo Ân mà theo nhân định của TS Mai Anh Tuấn là “một điều quá tiếc nuối”.

“Ngôi chùa nơi chúng tôi bước vào đang có rất đông tín đồ đắm chìm trong trạng thái bất động. Những người khác ngồi dưới đất và tò mò nhìn chúng tôi, bởi ngôi giáo đường thờ Phật này là một ngôi chùa, vừa là nơi trú chân cho khách lữ hành và người từ phương xa tới, vừa là nơi đặt tượng các vị thần linh, bài vị tổ tiên, đồng thời cũng đóng vai trò một ngôi đình, nơi các chức sắc họp bàn xử lý những việc của địa phương” – đó một đoạn mô tả ngắn về chùa Báo Ân được hai tác giả Pháp ghi lại.

“Ngôi chùa này có dạng chữ T ngược, theo tập tục, và mang vẻ bí ẩn hẳn là do lúc nào cũng thiếu sáng. Các bàn thờ gắn sát tường, xây bằng gạch đặc, được bố trí thành nhiều tầng, cũng nằm khuất trong bóng tối, hương khói nghi ngút. Đây đó dọc theo các bức tường, lấp lánh ánh vàng hay sắc đá gắn trên trang phục và mũ miện của các vị thần”…

2. Cuốn Nghệ thuật xứ An Nam, đầu thế kỷ XX của học giả người Pháp Henri Gourdon đưa ra một kết luận quan trọng rằng, trong thời kỳ trung đại ở xứ An Nam, hội họa vẽ theo nghĩa hiện đại không hề xuất hiện mà đặc sắc mỹ thuật, hội họa của người An Nam chủ yếu tìm từ tôn giáo, cụ thể hơn là Phật giáo. Sự sáng tạo, điểm riêng khác của mỹ thuật ảnh hưởng từ Phật giáo không nằm ở phần chính điện. Bởi Henri Gourdon cho rằng, tất cả các tượng Phật ở Tam Bảo đều giống nhau, điều khác biệt nhất trong mỹ thuật Phật giáo của người An Nam nằm ở phần hậu điện, chính là nơi những người dân bình thường có thể truyền tải cái nhìn, cảm hứng liên quan đến Phật giáo qua những bức tượng, những bức phù điêu. Như những phần không gian Thập điện trong các ngôi chùa thường được nhào nặn từ đất, đục đẽo từ gỗ hết sức thô mộc nhưng lại cho thấy rõ được sự tài hoa, sáng tạo của mỹ thuật Phật giáo.

Nhận định của học giả Henri Gourdon đúng khi xem xét trường hợp của những bức tranh trong cuốn Các tầng địa ngục theo Phật giáo. Chỉ qua những bức tranh được vẽ lại bằng bút sậy theo các bản khắc nổi ở chùa Báo Ân, ta đã thấy được sự tài hoa, trí tưởng tượng phong phú để chuyển thể những câu chuyện từ trong kinh Phật ra hình ảnh qua đường nét, hình khối cụ thể của người dân xứ An Nam trong sự ngưỡng mộ của những cái nhìn phương Tây.

Đúng như sự bày tỏ mà hai tác giả người Pháp viết trong phần cuối của cuốn sách: “sự tinh tế lạ lùng của những nét vẽ, sự táo bạo khi thể hiện những bộ mặt rạng rỡ nhân từ hay run rẩy giận dữ, nét mềm mại của những bộ râu vàng hoe bồng bềnh như sóng biển, những ánh mắt nảy lửa, những cử chỉ dịu dàng, những khối cơ ở một vài bộ phận tay chân được nghiên cứu khéo kéo dẫu có phần ngây ngô. Chỉ một nét sậy thôi mà từng đường gân thớ thịt trông như đang run lên. Xem ra chẳng ai tường tận giải phẫu học như các họa sĩ mang dáng vẻ trẻ con của chúng ta. Than ôi, người ta lại thường hạ thấp sự hiểu biết độc đáo của họ!…”.

III. Sự ‘biến ảo theo dòng thời gian’ của hình ảnh địa ngục

“Không nghi ngờ rằng, những hiểu biết của người Việt Nam về thế giới bên kia phần lớn được kiến tạo từ tư tưởng Phật giáo. Phật giáo vẽ ra những tầng địa ngục dầu sôi lửa bỏng để trừng ác, khuyến thiện, đơm thổi hy vọng của con người vào những kiếp lai sinh tốt đẹp hơn, nhưng thực chất là để răn dè con người sống lương thiện hơn ở hiện kiếp. Từ tư tưởng triết học, địa ngục được chuyển hóa thành nhiều loại hình nghệ thuật tôn giáo khác nhau, từ thơ phú, cho đến hội họa, bích họa, điêu khắc, phù điêu…”- TS Trần Trọng Dương nhận xét.

Nếu cuốn sách Các tầng địa ngục theo Phật giáo của 2 tác giả người Pháp: Léon Riotor và G. Leofanti là một lát cắt về thế giới địa ngục được miêu tả vào cuối thế kỷ 19 thì TS Trần Trọng Dương lại tách mình ra khỏi toàn bộ nội dung cuốn sách và thực hiện một khảo cứu về địa ngục trong lịch sử văn hóa Việt Nam, để cung cấp thêm một góc nhìn khác – góc nhìn của người Việt hiện đại nhìn về các dấu vết vật chất, các lớp niên đại xa xăm, các loại hình văn bản và nghệ thuật khác nhau không hề thuần nhất và tĩnh tại, mà luôn biến ảo theo dòng thời gian.

Địa ngục trong vũ trụ quan Phật giáo

Phật giáo, Thiên Chúa giáo hay Đạo giáo… đều có quan niệm về sự sống và cái chết, đều có sự đối lập giữa thiên đàng (hay niết bàn, cõi trời, cõi tiên…) và địa ngục. Quan niệm về địa ngục của Phật giáo được tạo nên như thế nào?

Trước hết, nó là một khái niệm của thế giới quan Phật giáo. Phật giáo cho rằng 1 thế giới tồn tại 2 dạng hình khác nhau. Đó là thế giới thực hữu và thế giới tâm cảnh. 2 thế giới vừa khách quan, vừa chủ quan đó tồn tại nhất quán trong thế giới quan Phật giáo.

Thế giới thực hữu theo quan niệm của Phật giáo là cấu trúc tiểu vũ trụ. Cấu trúc này được cấu tạo không phải theo hình tròn mà là thế giới dạng đĩa. Một dạng đĩa dẹt hình tròn đồng tâm và đa chiều. Trong đó, thế giới được đặt lên một khay đĩa gồm các tầng Kim luân, Thủy luân, Không luân và Địa luân. 4 tầng này xếp chồng với nhau và mặt đất nổi ở trên các tầng đó.

Trên mặt đất lại có cấu trúc “cửu sơn bát hải”, một cấu trúc tiểu thế giới gồm có 9 núi và 8 biển, được phân bố theo dạng đồng tâm, đa chiều, tức có 1 ngọn núi trung tâm là núi Tu Di – núi vua, núi trung tâm của vũ trụ. Bao quanh ngọn núi Tu Di là các vòng biển, vòng núi xếp chồng lên nhau theo dạng hình tròn nối tiếp. Đó là toàn bộ mô hình tiểu thế giới theo vũ trụ quan Phật giáo.

Theo Pháp giới an lập đồ, các tầng địa ngục nằm ở phần rìa ngoài cùng của mô hình tiểu thế giới, ở phần đại dương có 4 châu lớn: Tây Ngưu Hóa châu, Bắc Câu Lô châu, Nam Thiêm Bộ châu và Đông Hải Thần châu. Trong đó, theo một số kinh sách ghi rằng các tầng địa ngục nằm ở Nam Thiêm Bộ châu. Nhưng cũng có kinh sách khác ghi rằng, các tầng địa ngục nằm ở ngoài rìa của thế giới, nơi 2 tầng thiết luân, dãy núi ngoài cùng của đĩa thế giới. Những ghi chép khác nhau cho thấy quan niệm của Phật giáo về vị trí của các tầng địa ngục cũng khác nhau.

Cũng theo Pháp giới an lập đồ, dưới Nam Thiêm Bộ châu bao gồm 8 tầng địa ngục nóng, ngoài ra còn có 8 tầng địa ngục lạnh, 8 tầng này lần lượt xếp dần, ở phía dưới của mặt đất, mỗi một tầng có chức năng riêng, bao gồm các địa ngục: Đẳng Hoạt, Hắc Thằng, Hợp Chúng, Hào Khiếu, Khiếu Hoán, Viêm Nhiệt, Cực Nhiệt, Vô Gián. Ở mỗi tầng địa ngục phải trải qua nhiều kiếp khác nhau, càng về sau các địa ngục càng kéo dài về thời gian.

Theo TS Trần Trọng Dương, “quan niệm của Phật giáo không có chuyện con người chết đi mà cái chết là khởi đầu cho một sự sống mới. Điều này liên quan đến cơ chế tạo nên và vận hành thế giới quan của Phật giáo là nghiệp duyên – luân hồi -quả báo. Quan niệm này tạo thành chu trình 6 nẻo luân hồi.

Khi sống ở trên đời, sau khi chết đi có thể hóa thành các nẻo khác nhau. Kẻ nào ác thì sẽ phải xuống địa ngục, người nào thiện lành sẽ được Phật Tây phương tiếp dẫn lên chốn Niết bàn. Quá trình đầu thai như vậy tạo thành vòng tròn sinh hóa bất tận, con người không phải chết đi mà sống qua các kiếp khác nhau.

Quan niệm địa ngục của người Việt “biến ảo theo thời gian”

Những hình dung về địa ngục bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam song hành cùng quá trình tư tưởng về Phật giáo được truyền nhập vào Việt Nam cùng với những nhà sư đầu tiên đi hoằng hóa ở Giao Châu vào đầu Công nguyên. Thế nhưng, dấu vết hiện còn về quan niệm địa ngục theo Phật giáo là ở thế kỷ 5 thông qua 6 bức thư tranh luận về đạo Phật giữa Đạo Cao và Pháp Minh với Lý Miễn. Dẫu vậy, những vấn đề liên quan đến thế giới quan Phật giáo có địa ngục ở trong những bức thư tranh luận này “chỉ thoảng qua”,theo TS Trần Trọng Dương.

Mãi cho đến thế kỷ10, sự xuất hiện của những “kinh tràng”, khai quật được ở Hoa Lư vào những năm 1960, cho thấy văn hóa Mật tông đã ảnh hưởng đến đời sống văn hóa của người Việt. Cụ thể, 200kinh tràng do Đinh Liễn lập đàn cầu siêu là những hiện vật sống chứng minh văn hóa Mật tông và những tư tưởng về địa ngục của Phật giáo Mật tông đã xuất hiện ở Đại Cồ Việt vào thế kỷ10. Những kinh tràng này mục đích nhằm cầu siêu, giải thoát cho linh hồn của Đinh Hạng Lang (em trai của Đinh Liễn) thoát khỏi địa ngục.

Sang đến thời Lý, hàng loạt bia Phật giáo hiện còn, cũng chỉ có những ghi chép ít ỏi về địa ngục. Đặc biệt, trong Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, có những hình họa vẽ lại cảnh một người con đang vai gánh cha, vai gánh mẹ đi quanh núi Tu Di. Theo TS Trần Trọng Dương, đây được coi là biểu hiện sự báo hiếu đạo đức của Phật giáo và có ảnh hưởng từ quan niệm muốn siêu thoát cho cha mẹ, người con phải gánh cha mẹ nhiễu Phật khắp nơi, vòng quanh núi Tu Di. Cũng trong Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh có ghi nhiều hình phạt khác nhau, những người con ngỗ nghịch bất hiếu khi chết sẽ bị đọa vào địa ngục.

Đến thế kỷ 14, nhiều tác phẩm khác nhau như: Khóa hư lục của vua Trần Thái Tông hay Giáo tử phú của Mạc Đĩnh Chi có nhắc đến những quan niệm về địa ngục. 2 tác phẩm này vừa là tác phẩm văn chương vừa là khoa nghi trong đó có thuyết giảng nhiều về các tầng địa ngục khác nhau. Từ địa ngục sơn đao, địa ngục cưa xẻ, địa ngục dầu sôi, địa ngục vạc lửa, địa ngục thiết lê (tức cái cày bằng sắt)… Những hoạt cảnh Phật giáo, những hình phạt địa ngục đó được mô tả rất cặn kẽ trong Khóa hư lục và Giáo tử phú.

Nếu Khóa hư lục là tác phẩm khoa nghi nhằm để thuyết giảng và thực hành nghi lễ Phật giáo trong đó răn dè rất sâu sắc những vấn đề về liên quan đến sống và chết thì Giáo tử phú lại là một tác phẩm của một nhà Nho mượn những hình ảnh của địa ngục Phật giáo để dạy con mình. Đây là tác phẩm Nôm đầu tiên hiện biết có ghi chép về địa ngục.

Tiếp đến thế kỷ15 – 16, những hình ảnh về địa ngục mờ nhạt, ngoài những “mảnh vụn” văn tự rất nhỏ mà vua Lê Thánh Tông có nhắc đến trong Thập giới cô hồn quốc ngữ văn. Trong tác phẩm này cũng có nói đến địa ngục, Phong Đô, nói đến những vị thầy tu mà thân đi tu nhưng không giữ được giới đến lúc tưởng được ngồi tòa sen lại hóa lạc vào địa ngục. Những kiểu răn dè nhà Nho như vậy đối với Phật giáo cho thấy Phật giáo thời Lê Sơ chịu ảnh hưởng, sự quản chế, quản thúc của chính quyền và hệ tưởng Nho giáo.

Sang đến thế kỷ17 – 19, nghệ thuật Phật giáo nở rộ. Nghệ thuật Phật giáo thời Lê trung hưng, giai đoạn này lưu giữ được rất nhiều tác phẩm nghệ thuật thuộc hàng kiệt tác và trong đó có những bộ tranh quý, những bộ ván khắc, những bộ phù điêu và tranh vẽ về các tầng địa ngục. Theo TS Trần Trọng Dương, quan niệm về Thập điện Diêm vương “không có trong giai đoạn Lý – Trần mà chỉ có ở nghệ thuật Phật giáo từ thế kỷ 17 trở về sau”.

Ngoài ra, cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20, ở Việt Nam, có sự truyền nhập, hòa giao giữa Đạo giáo và Phật giáo trong quan niệm về địa ngục. Ở giai đoạn này, nảy sinh phong trào Chấn hưng Phật giáo đi liền với phong trào Thiện đàn của Đạo giáo miền Nam. Đạo giáo Việt Nam giai đoạn này đứng trước một cuộc đụng độ văn hóa giữa Đông và Tây khiến cho Đạo giáo Việt Nam giai đoạn này phát sinh phong trào Thiện đàn, là những đàn làm việc thiện, ở đó họ sáng tác kinh sách, sáng tác thơ văn truyền bút, giáng bút và xây dựng những hệ thống thần điện riêng của Đạo giáo Việt Nam. Trong đó các quan niệm về các tầng địa ngục của Phật giáo cũng được đưa vào những bộ kinh sách được in ở các thiện đàn này như những bộ Ngọc lịch in khắc ván gỗ hiện vẫn còn được lưu trữ.


Lai lịch của “Thập điện Diêm vương”

TS Trần Trọng Dương cho hay: “Ở trong Phật giáo Ấn Độ hay Hindu giáo, nguyên thủy chỉ có 2 vị thần canh giữ ở dưới địa phủ là 2 anh em, 1 người anh trai và cô em gái. Còn trong Phật giáo Đông Á, trong đó có Phật giáo Việt Nam, trong các kinh Hán tạng Bắc truyền, cũng ghi rất khác nhau:Những kinh từ thời Đường trở về trước, chưa có quan niệm về Thập điện Diêm vương mà vay mượn có 8 tầng địa ngục nóng và 8 tầng địa ngục lạnh, hoàn toàn từ Phật giáo Nam tông.

Trong thời Đường, quan niệm về Thập điện gần như chưa có, chỉ có quan niệm 16 tầng địa ngục hoặc 18 tầng địa ngục và chỉ có 1 vị vua duy nhất đó chính là Diêm La, cai quản cõi âm ty.

Nhưng khi Phật giáo truyền nhập vào Trung Quốc một thời gian, tư tưởng địa ngục của Phật giáo hòa kết với tư tưởng địa ngục của Đạo giáo và tạo thành một hệ thống thần điện vừa Đạo giáo hóa, vừa Phật giáo hóa. Mỗi một tầng địa ngục lại là 1 ông vua cai quản. Việc hình dung 1 địa ngục giống như 1 cõi hành chính ở nhân gian, coi mỗi 1 tầng địa ngục là 1 tầng triều đình. Mỗi 1 tầng triều đình như thế có chức năng hành chính, khảo sát, hạch tội.

Cho đến giai đoạn Tống trở về sau, mới thấy bắt đầu có một số ghi chép về các tầng địa ngục là có Thập điện Diêm vương. Lúc đó, đã hạ thấp số lượng từ 16 xuống còn 10. Và một số thuyết khác, có quan niệm lên đến 18 tầng địa ngục. Có thể thấy, các tầng địa ngục quan niệm rất khác nhau qua thời gian”.


Về 2 tác giả người Pháp

Tác giả Léon Riotor, tên đầy đủ là Léon Eugène Emmanuel Riotor, sinh năm 1865 tại Lyon và mất năm 1946 tại Paris, là chính trị gia và nhà văn người Pháp. Từng là Phó Chủ tịch Hội đồng Thị chính Paris và Hội đồng tỉnh Seine, ông tham gia sáng tác nhiều thể loại, khi thì viết thơ, lúc viết tiểu thuyết, châm biếm có, du ký có, tâm lý học có và cả phê bình nghệ thuật cũng có.

Có thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu của ông như: Le Pêcheur D’Anguilles (1894), Poèmes Et Récits De Guerre (1918), Les Raisons De Pascalin (1894), Les Taches D’Encre (1929), L’Ami Inconnu (1895); La Nouvelle Autriche (1927), Auguste Rodin; Les Arts Et Les Lettres (1901, 1903, et 1906)…

Tác giả Gaston Léofanti, tên đầy đủ là Gaston Adolphe Joseph Léofanti, sinh năm 1863 tại Rennes và mất năm 1909 tại Paris. Ông từng là phóng viên tờ L’Avenir Du Tonkin, biên tập viên và thương gia.