Taodan.com.vn – Cho đến những thập niên đầu của thế kỷ 21, có nhiều ý kiến cho rằng, dường như một thế kỷ “vàng son” của thi ca Việt Nam đã đi qua, và rằng thời đại của thi ca đã dần tắt trước sự “xâm lăng” của các loại hình văn hóa mới trước thời đại văn minh hội nhập toàn cầu của công nghệ thông tin và các phương tiện nghe – nhìn. Có lý lắm, khi cộng đồng văn hóa Việt hôm nay không mấy người chú ý đến thơ đương đại và sự phát triển lặng lẽ của nó trong dòng chảy chung của văn học Việt Nam trong ba thập kỷ gần đây.
Phải chăng tình yêu thơ ca không còn đất sống trong tâm hồn con người hiện đại, khi “cơn lốc” của đời sống công nghiệp, đời sống đô thi và cái gọi là lối “sống gấp” đang nghiền thời gian sống của chúng ta thành từng mảnh vụn? Đã có lúc tôi tự hỏi: “Thơ cần cho ai – cần cho mọi người hay chỉ cần cho riêng ta?”. Nếu nói thơ cần cho mọi người thì đấy là một điều không thực tế, vì số đông hôm nay không đọc thơ (cũng không phải vì không đọc thơ mà đời sống tinh thần của họ nghèo nàn). Trong cộng đồng văn hóa Việt hôm nay chỉ có một thiểu số còn đọc thơ (đa phần là học sinh, sinh viên và người làm thơ đọc thơ với nhau).
Vậy thơ sống thế nào trong thời đại “kỹ thuật số”, trong thời “điện tử hóa” đang rút dần đất sống của thơ?.
Đã nhiều đêm tôi băn khoăn tự hỏi mình: phải lý giải sao đây khi thơ hiện đại mỗi ngày một ít độc giả? Phải chăng tiếng nói của nhà thơ không phải là tiếng nói của số đông tri thức? (chưa nói đến quảng đại nhân dân). Phải chăng tiếng nói của nhà thơ chưa rung động, chưa lôi cuốn được mọi người? Phải chăng các nhà thơ đã khép chặt cõi thơ riêng của mình, không để cho những âm thanh vang nhọc nhằn, bức bối của đời thường có cơ hội lên tiếng? Phải chăng nhà thơ chưa tìm ra con đường đưa cái đẹp thi ca đến với trái tim con người hiện đại? Chúng ta cùng đi tìm lời giải.
Theo tôi, thơ đương đại đang tồn tại 2 dòng chảy chính. Có thể tạm gọi dòng chảy thứ nhất là dòng thơ không chuyên với sự có mặt đông đảo của những người yêu thơ, những người làm thơ bình dân đang sinh hoạt ở rất nhiều câu lạc bộ thơ ở nhiều thôn, xóm, phường, xã, quận, huyện,… tại các địa phương trên địa bàn cả nước. Về dòng chảy này, tôi chợt nhớ tới một câu thơ của nhà thơ Lê Văn Ngăn “Chúng tôi vô danh nhưng chúng tôi nhiều hơn những người nổi tiếng”. Có thể chưa có thời kỳ văn học nào của đất nước ta lại có một nền thơ bình dân rộng rãi và sôi động đến như hiện nay, sự bùng nổ ấy chính là nhờ công nghệ in ấn và xuất bản rất phát triển hiện nay khi ai cũng có thể bỏ tiền túi để công bố những sáng tác thơ của mình (rẻ nhất cũng là bằng cách đánh máy và photo copy).
Tôi nghĩ đây cũng là chuyện bình thường, là sự phát triển tất yếu của một xã hội ngày càng cởi mở, nhất là khi dân tộc chúng ta là một dân tộc yêu thơ và ở giai đoạn đã coi việc làm thơ như một hành động yêu nước như ông chủ báo Nam Phong ngày xưa đã từng nói: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”. Đấy tạm gọi là dòng chảy thứ nhất.
Dòng chảy thứ hai là dòng chảy thơ chuyên nghiệp với sự hiện diện của những người viết chuyên nghiệp, những nhà thơ đã thành danh. Đây là dòng thơ chủ lưu làm nên diện mạo của thơ ca Việt Nam đương đại với những tinh hoa và tài năng thơ thật sự. Nhưng có một thực tế nghiệt ngã, những người nổi tiếng như họ, những năm qua lại đang “chìm nghỉm” trong một biển người làm thơ vô danh hiện nay. Chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật này khi các nhà thơ chuyên nghiệp phải từ 4 – 5 năm (có người cả chục năm) mới xuất bản được một cuốn thơ, mỗi cuốn in khoảng chừng 500 bản, lại để biếu nhau là chính vì thơ bán được rất ít hoặc không bán được.
Vậy thì lớp độc giả nào sẽ đọc thơ của chúng ta với 500 bản in như vậy nếu không phải chỉ có chính người làm thơ đọc của nhau? Và lời giải đáp cho vấn đề “Làm thế nào để tăng cường mối liên hệ giữa bạn đọc và tác giả thơ” thì theo tôi phải chăng, chính là ở việc Hội Nhà văn Việt Nam phải tìm cách nào đó để cái biển người yêu thơ, làm thơ vô danh kia trở thành độc giả của thơ chúng ta, hay nói cách khác dòng thơ chuyên nghiệp làm thế nào đó để tìm tòi, đổi mới và nâng cao chất lượng thơ lên để có thể hướng đạo, để nối cầu với dòng thơ không chuyên. Nhưng có một thực tế khắc nghiệt khác là nếu thơ chúng ta không hay (thứ thơ chuyên nghiệp mà cứ làng nhàng như hiện nay) thì cái biển người làm thơ vô danh kia cũng sẽ quay lưng, không thèm đọc chúng ta đâu. Lúc ấy, họ quay ra đọc thơ của nhau và nền thơ bình dân có nguy cơ trở thành dòng chủ lưu chính của nền văn học đương đại.
Theo tôi, chúng ta chỉ có hai mươi bốn chữ cái – hai mươi bốn con đường mở ra hai mươi bốn dòng sông ngôn ngữ. Vào cái thời ma lực của chữ viết, với máy in, mực in và giấy in, khiến nhiều người mộng mơ và đa cảm đều muốn trở thành thi sĩ. Không ai có quyền cấm họ trở thành các nhà thơ với cách thức gieo trồng cảm xúc để cho ra đời một thứ sản phẩm gần giống với thơ, và nhiều khi dứt khoát không cần phải là thơ, cũng chẳng sao! Nhưng sau mọi xúc động duy mỹ – thơ là sự kết cấu của ngôn từ để tư tưởng bay lên, và bởi khát vọng của yêu thương, đau đớn và mất mát của chúng ta nhiều khi không cần tới thứ cảm xúc trữ tình cũ kỹ và nghèo nàn ý tưởng, vì chúng ta chỉ có hai mươi bốn chữ cái – hai mươi bốn dòng sông mở ra hai mươi bốn con đường ngôn ngữ.
Nguyễn Việt Chiến