I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

– Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, quê huyện Phong Điềm, tỉnh Thừa Thiên-Huế trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cách mạng.

– Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, cứu nước.

– Tác phẩm chính: Đất ngoại ô, Mặt đường khát vọng, Ngôi nhà có ngọn lửa ấm, Thơ Nguyễn Khoa Điềm, Cõi lặng

– Phong cách thơ: sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người tri thức về đất nước, con người Việt Nam

2. Tác phẩm

a. Xuất xứ – Hoàn cảnh ra đời

– Trường ca Mặt đường khát vọng hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974.

– Tác phẩm viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh thế hệ mình với quê hương đất nước.

b. Vị trí đoạn trích

– Đoạn trích Đất Nước: nằm ở phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng” là một trong những đoạn thơ hay về đề tài Đất Nước trong thơ Việt Nam hiện đại.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Đất nước được cảm nhận từ phương diện văn hóa dân gian, văn học dân gian (9 câu đầu)

– Toàn đoạn thơ có chín câu, được viết theo thể thơ tự do, hình ảnh thơ giàu sức liên tưởng, nhà thơ đã giúp cho người đọc có những suy nghĩ, cảm nhận về cội nguồn và sự hình thành của Đất nước một cách sâu sắc.
– Trước hết, ở hai câu thơ đầu của đoạn thơ, tác giả đã đi tìm sự lí giải về sự sinh thành của đất nước. Đất nước có từ bao giờ? Để trả lời cho câu hỏi này, nhà thơ đã viết:
Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
+ Tham vọng tính tuổi đất nước của nhà thơ thật khó bởi chính cái ngày xửa ngày xưa (thời gian nghệ thuật thường thấy trong truyện cổ tích) có tính phiếm chỉ, trừu tượng, không xác định.
+ Đó là thời gian huyền hồ, hư ảo, thời gian mang màu sắc của huyền thoại. Song chính ở cái ngày xửa ngày xưa đó, nhà thơ đã giúp cho chúng ta nhận thức được: Đất nước đã có từ rất lâu, rất xa, từ bao giờ chẳng biết. Chỉ biết rằng: Khi ta cất tiếng khóc chào đời, thì đất nước đã hiện hữu.
– Không dừng lại ở khát vọng đo đếm tuổi của đất nước, nhà thơ còn nỗ lực hình dung về khởi đầu và quá trình trưởng thành của đất nước:
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn,
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
+ Phải chăng, khởi thủy của đất nước là văn hóa được kết tinh từ tâm hồn và tính cách anh hùng của con người Việt Nam.
+ Ở đây, miếng trầu đã là một hình tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mỹ từng xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích, ca dao, tục ngữ. Bởi lẽ, miếng trầu là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của tâm hồn dân tộc.
– Từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ văn hiện đại, cây tre đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần dân tộc quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước.
– Và còn nữa, trong quá trình trưởng thành, đất nước còn gắn liền với đời sống văn hóa tâm linh, bằng phong tục tập quán lâu đời còn truyền lại và bằng chính cuộc sống lao động cần cù vất vả của nhân dân:
Tóc mẹ búi sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cài kèo, cái cột thành tên,
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng,…

+ Đoạn thơ, bằng những ý thơ giàu sức liên tưởng, nhà thơ đã đưa người đọc trở về với những nét đẹp văn hóa một thời của người phụ nữ Việt Nam bằng hình ảnh tóc mẹ búi sau đầu, gợi tả một nét đẹp thuần phong mĩ tục của người Việt; và những câu ca dao xưa ca ngợi vẻ đẹp đậm tình nặng nghĩa trong cuộc sống vợ chồng “cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.

+ Không những vậy, hình ảnh thơ còn thể hiện sự cảm nhận về đất nước gắn với nền văn hóa nông nghiệp lúa nước.

– Giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm; cấu trúc thơ theo lối tăng cấp: Đất nước đã có; Đất nước bắt đầu; Đất nước lớn lên; Đất nước có từ… giúp người đọc hình dung cả quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành của đất nước trong thời gian trường kì của con người Việt Nam qua bao thế hệ. Đặc biệt là cách nhà thơ viết hoa hai từ “Đất Nước” (vốn là một danh từ chung) cũng đã giúp ta cảm nhận tình yêu và sự trân trọng của nhà thơ khi nói về đất nước, quê hương của mình.

=> Có thể nói, đoạn thơ mở đầu trả lời cho câu hỏi về cội nguồn đất nước – một câu hỏi quen thuộc, giản dị bằng cách nói cũng rất giản dị, tự nhiên nhưng cũng rất mới lạ: Nhà thơ không tạo ra khoảng cách sử thi để chiêm ngưỡng và ca ngợi đất nước hoặc dùng những hình mĩ lệ, mang tính biểu tượng để cảm nhận và lí giải, mà dùng cách nói rất đỗi giản dị, tự nhiên với những gì gần gũi, thân thiết, bình dị nhất.

2. Đất nước được cảm nhận trong sự thống nhất hài hòa các phương diện thời gian, không gian địa lí và lịch sử (20 câu tiếp)

– Đoạn trích Đất Nước thâu tóm ý nghĩa của cả chương V, sự cảm nhận về Đất Nước một cách toàn diện, cụ thể, sâu sắc, cốt lõi là tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân. Từ đó nhà thơ bộc lộ lòng yêu quý, niềm tự hào, sự gắn bó và trách nhiệm với đất nước thân yêu. Tư tưởng chủ đạo này đã được Nguyễn Khoa Điềm triển khai ở nhiều bình diện: địa lí, lịch sử, văn hóa và thể hiện bằng hình thức thơ trữ tình chính luận, giọng thơ tâm tình, lời thơ đậm đà giàu sắc thái dân gian nhưng đặc biệt gợi cảm, để lại ấn tượng rất sâu sắc trong lòng bạn đọc.

– Mượn hình thức trò chuyện tâm tình với người con gái yêu thương. Nhà thơ định nghĩa Đất Nước, Đất Nước là gì theo cách riêng của mình, theo cách riêng của nhà thơ. Và ở đoạn thơ tiếp theo, vận dụng tính đơn lập của tiếng Việt, Nguyễn Khoa Điềm đã tách từ Đất nước thành hai thành tố là Đất và Nước để có thể đi sâu vào khái niệm, biến khái niệm Đất Nước trừu tượng thành cụ thể, sinh động và gợi cảm:

Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

+ Ý thơ ở đây rất mới mẻ, cụ thể. Đất nước đã trở thành rất gần gũi, thân thương, gắn bó với mỗi người. Thân thương như trường ta học, như dòng sông em tắm, như góc phố, đình làng, ao sen, lũy tre, cây đa bến nước nơi lứa đôi hò hẹn.

+ Một không gian nhỏ chỉ hai người biết, hai người hay, rất riêng tư, nhưng cũng đầy hồn quê hương xứ sở.

– Đất nước còn thân thương như câu ca dao tình yêu quen thuộc cất lên từ mỗi xóm làng:

Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai

– Vẫn mạch cảm xúc thiết tha, nhà thơ say xưa lý giải:

Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ

+ Lấy ý từ những câu dan ca Huế mượt mà, câu thơ đưa người đọc về với không gian Đất Nước thân thương, từ những núi bạc biển khơi mang âm hưởng thành ngữ dân gian gợi ra một đất nước mênh mông giàu đẹp.

+ Sự mênh mông giàu đẹp đó không tự nhiên mà có, được thời gian đằng đẵng, dài lâu, liên tục, bền bỉ, mà nhân dân ta đã đổ bao mồ hôi, nước mắt, cả máu nữa, để xây dựng bảo vệ bờ cõi đất nước, thành dải đất chữ S cho dân mình đoàn tụ, đoàn tụ trong yêu thương, tự hào.

– Tự hào bởi:

Đất là nơi chim về
Nước là nơi rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

+ Ở đoạn thơ này, những hình tượng quen thuộc trong thần thoại truyền thuyết như Chim Rồng, Lạc Long Quân, Âu Cơ, bọc trăm trứng cùng tụ về trong sự liên tưởng của nhà thơ. Sự hội tụ ấy làm bật lên ý thơ có tầm khái quát cao: Dân tộc ta là con rồng cháu tiên, trai tài gái sắc. Đất Nước ta là nơi đất lành chim về, đất thiêng rồng ở, dân tộc Việt là anh em một nhà, cùng sinh ra từ bọc trăm trứng của cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ.

+ Một đất nước có cội nguồn văn hóa, có truyền thống lâu đời, rất đỗi thân thương và tự hào như thế, chính là Đất Nước của Nhân Dân.

+ Đất Nước qua cách cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm không khô khan, trừu tượng mà tươi sáng cảm xúc Đất Nước gắn liền với đời sống, số phận của từng cá nhân ở mọi phương diện: lịch sử – địa lí – văn hóa.

– Đất Nước còn là sự kết tinh, thống nhất sâu sắc những giá trị tinh thần từ quá khứ:

Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần đời đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau

+ “Những ai đã khuất”, thì đến hiện tại “những ai bây giờ” và tương lai “yêu nhau và sinh con đẻ cái”. Đặc biệt, mỗi thế hệ, mỗi cá nhân đều gắn bó với Đất Nước. Nhất là trách nhiệm của thế hệ hôm nay vô cùng nặng nề nhưng vinh quang. Chúng ta vừa phải gánh vác những công việc nhọc nhằn, nặng nề mà ông cha ta giao lại vừa dặn dò con cháu chuyện mai sau một cách ân cần chu đáo để các thế hệ mai sau sẽ tiếp tục đưa Đất Nước đi đến một chân trời hòa bình, hạnh phúc, ấm no, giàu mạnh.

+ Đó là mơ mộng, là nước mơ khát vọng của thời đại nhà thơ, nhưng lại là hiện thực tất yếu của tương lai. Ước mơ ấy ngày nay đã thành sự thực. Lời thơ trong sáng, ấp ủ niềm tin giữa những ngày đánh Mĩ của nhà thơ, của ông cha ta.

– Vì sự mưu sinh, mỗi người có thể làm ăn lập nghiệp ở bất cứ nơi đâu, nhưng trong thẳm sâu tâm hồn của mỗi chúng ta, đều mang trong mình dòng máu Việt. Những giờ khắc thiêng liêng nhất, niềm tự hào gắn bó với Đất Nước lại trỗi dậy nồng nàn:

Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.

+ Hai câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã mượn ý tứ của câu ca dao xưa:

Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba
Dù ai buôn bán gần xa
Nhớ ngày giỗ tổ tháng ba mùng mười

+ Chỉ một câu ca dao cũng để nói lên sự gắn nó máu thịt của người Việt với quê hương đất nước. Dù bộn bề công việc, dù có ngược xuôi nơi nào, họ cũng luôn hướng về cội nguồn, miền đất tổ linh thiêng đã trở thành biểu tượng, thành linh hồn của đất nước.

+ Hai chữ “cúi đầu” thể hiện tấm lòng thành kính của nhà thơ với Đất Nước thân yêu.

=> Bằng cách sử dụng sáng tạo các yếu tố ca dao, truyền thuyết dân gian, nhà thơ đã lí giải một cách sinh động, cụ thể cho câu hỏi: Đất nước là gì? Từ đó, hình ảnh Đất Nước hiện lên qua đoạn thơ vừa gần gũi, cụ thể, vừa thiêng liêng, khái quát trên cả bề rộng không gian địa lí mênh mông và thời gian lịch sử đằng đẵng của dân tộc.

3. Mỗi quan hệ riêng – chung, cá nhân – cộng đồng, sự tiếp nối của các thế hệ trong Đất Nước (13 câu tiếp)

– 12 câu thơ mở đầu phần hai của đoạn thơ Đất Nước với nội dung ca ngợi, khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân.

+ Tác giả nêu ra một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu địa lí về những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Nhà thơ đã kể, liệt kê một loạt kì quan thiên nhiên trải dài trên lãnh thổ từ Bắc vào Nam như muốn phác thảo tấm bản đồ văn hóa đất nước. Đât là những danh lam thắng cảnh do bàn tay tự nhiên kiến tạo nhưng từ bao đời nay, ong cha ta đã phủ cho nó tính cách, tâm hồn, lẽ sống của dân tộc. Những ngọn núi, những dòng sông kia chỉ trở thành thắng cảnh khi nó gắn liền với con người, được cảm thụ qua tâm hồn, qua lịch sử của dân tộc.

+ Trong thực tế, bao thế hệ người Việt đã tạc vào núi sông vẻ đẹp tâm hồn yêu thương thủy chung để ta có những núi Vọng Phu, những hòn Trống Mái như những biểu tượng văn hóa:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

+ Hay vẻ đẹp lẽ sống anh hùng của dân tộc trong buổi đầu dựng nước và giữ nước để ta có những am đầm, con rồng, con cóc, con gà,… như những di tích lịch sử về quá trình dựng nước và giữ nước hào hùng:

Gót ngựa của Tháng Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm in góp dòng sông xanh thẳm
Những học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiêng
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
 Người học trò nghèo gió cho Đất Nước mình núi Bút non nghiên
Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

+ Thật sự, nếu không có những người vợ mòn mỏi chờ chồng cả thời chinh chiến thì không có sự cảm nhận về núi Vọng Phu. Cũng như nếu không có truyền thuyết Vua Hùng Vương dựng nước thì không thể có sự cảm nhận nét hùng vĩ của núi đồi quanh đền Hùng. Nói cách khác, những núi Vọng Phu, những hòn Trống Mái, những núi Bút, non Nghiên không còn là những cảnh thiên nhiên thuần túy nữa mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người không tên, không tuổi.

– Thiên nhiên, đất nước qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm hiện liên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này, đã đặt tên, ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, sòng sông, tấc đất này. Từ những hình ảnh, những cảnh vật, hiện tượng cụ thể, nhà thơ đã khái quát sâu sắc:

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…

+ Với cấu trúc quy nạp (đi từ liệt kê các hình ảnh, địa danh… đến khái quát mang tính triết lý), dường như nhà thơ không thể kể hết ra những danh lam thắng cảnh và những nét đẹp văn hóa dân tộc vô cùng phong phú và đa dạng trên khắp đất nước. Nên cuối cùng, nhà thơ đã khẳng định: trên không gian địa lý đất nước, mỗi địa danh đều là một địa chỉ văn hóa được làm nên bằng sự hóa thân của bao cuộc đời, bao tâm hồn người Việt.

– Đoạn thơ có kết cấu chặt chẽ, tự nhiên và được viết theo thể tự do. Câu thơ mở rộng kéo dài nhưng không nặng nề mà biến hóa linh hoạt làm cho đoạn thơ giàu sức biểu hiện và sức khái quát cao.

=> Đó là hình ảnh Đất Nước của nhân dân – nhân dân đã hóa thành đất nước. Bởi trên khắp ruộng đồng, gò bãi, núi sông đâu đâu cũng là hình ảnh của văn hóa, của đời sống tâm hồn, cốt cách của Việt Nam.

5. Lời nhắc nhở thế hệ hôm nay và những thế hệ mai sau phải biết gìn giữ và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc (25 câu tiếp)

– Sau khi đã khẳng định vai trò của nhân dân làm nên bức tranh địa lí – văn hóa muôn màu muôn vẻ, nhà thơ tiếp tục bày tỏ những suy tư, nhận thức của mình về vai trò của nhân dân trong việc làm ra lịch sử và truyền thống của đất nước.

– Nghĩ về bốn ngàn năm của đất nước, nhà thơ đã nhận thức được một sự thật đó là: Người làm nên lịch sử không chỉ là những anh hùng nổi tiếng mà còn là những con người vô danh bình dị. Thật sự trong bề dày bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, có biết bao thế hệ cha anh dũng cảm, chiến đấu, hi sinh và trở thành anh hùng mà tên tuổi của họ cả anh và em đều nhớ:

Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ

– Nhưng cũng có hàng triệu, hàng triệu người cũng trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước đã ngã xuống, họ đã sống và chết, không ai nhớ mặt đặt tên, nhưng tất cả, họ đều có công làm ra Đất Nước. Có thể nói, đây là một quan niệm mới mẻ và đất nước của nhà thơ. Và từ quan niệm này, Nguyễn Khoa Điềm đã hết lời ca ngợi và tôn vinh lòng yêu nước của nhân dân:

Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh…

– Với tư tưởng Đất nước của nhân dân, tác giả đã khẳng định tất cả những gì do nhân dân làm ra, những gì thuộc về nhân dân như hạt lúa, ngọn lửa, giọng nói, tên xã tên làng,… cũng như chính những con người vô danh bình dị đó đã góp phần giữ và truyền lại cho thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước. Chính họ đã tạo dựng nền móng sự sống cho đất nước, cho nhân dân. Không những vậy, họ còn luôn sẵng sàng vũng lên chống ngoại xâm, đánh nội thù để giữ gìn sự sống đó và bảo vệ đất nước thân yêu của mình:

Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có giặc ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại

– Nhận thức về đất nước và lòng yêu nước của nhà thơ đã gắn liền với lòng biết ơn nhân dân, bởi nhân dân mới là những chủ thể đích thực làm ra đất nước và bảo vệ đất nước.

=> Hình ảnh thơ giản dị mộc mạc, giọng thơ vừa tự sự vừa trữ tình… đoạn thơ vừa là lời tâm tình, vừa là lời nhắn nhủ của nhà thơ với tất cả mọi người phải nhận thức đúng vai trò to lớn của nhân dân trong việc làm nên truyền thống lịch sử, văn hóa của đất nước bằng chính lòng biết ơn của mình.

6. Khẳng định Đất Nước là của nhân dân và niềm tin vào tương lai huy hoàng của Đất Nước (10 câu cuối)

– Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là một khúc ca – sự nhận thức về nguồn gốc sâu xa của nhà thơ về đất nước, về trí tuệ, tâm hồn và ý chí của nhân dân. Để từ đó, nhà thơ khẳng định: Nhân dân chính là người – là chủ thể làm nên Đất Nước.

– Câu thơ mở đầu đoạn thơ “Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân” chính là sự thể hiện cảm hứng chủ đạo bao trùm lên toàn đoạn trích và cả Chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng. Đây chính là lời kết, là sự khái quát từ những gì đã được nhà thơ triển khai trên cả chiều dài của trang thơ và trong cả chiều sâu của dòng cảm hứng trữ tình – chính luận.

– Nhân dân sáng tạo ra mọi giá trị văn hóa như ca dao, thần thoại. Như vậy, cũng chính là dã sáng tạo ra Đất Nước. Để khẳng định điều này, Nguyễn Khoa Điềm đã lấy ý từ ba câu ca dao có nội dung sâu sắc để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống dân tộc:

Dạy anh biết yêu em từ thở trong nôi
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu

+ Đó là vẻ đẹp giàu lòng yêu thương ân tình của người Việt đã bắt nguồn từ thời xa xưa vỡi những lời dân ca ngọt ngào:

Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru

+ Và đó là vẻ đẹp của lối sống đậm nghĩa, vẹn tình, quý trọng tình nghĩa hơn cả vật chất ngàn vàng. Ở đây, ý thơ của nhà thơ được gợi lên từ chính những câu ca dao một thời đi vào đời sống tâm hồn của dân tộc:

Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi chẳng tiếc, tiếc công cầm vàng.

+ Và đó còn là sự thể hiện của truyền thống kiên cường, bất khuất trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta. Để từ đó có thể khẳng định: nhân dân đã làm ra văn hóa, làm ra đất nước bằng chính tính cách, lẽ sống tâm hồn mình.

=> Tuổi trẻ thế hệ Nguyễn Khoa Điềm đã nhận thức được một cách sâu sắc Nhân dân là người làm nên lịch sử, làm ra văn hóa đất nước bằng tất cả tình cảm trân trọng và yêu thương. Suy tư và nhận thức này của nhà thơ là tư tưởng nghệ thuật đã trở thành truyền thống trong văn học Việt Nam. Từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu… đã từng nói lên nhận thức về vai trò của nhân nhân trong lịch sử. Đến các nhà thơ, nhà văn trong thời kì kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, nhận thức ấy đã được nâng lên thành một tư tưởng có tầm cao mới.

II. Tổng kết

1. Nội dung

– Đoạn trích thể hiện một cái nhìn mới mẻ về đất nước: Đất nước là sự hội tụ và kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân dân. Nhân dân là người làm ra đất nước.

– Đoạn trích nằm trong ý đồ tư tưởng của tác giả: thức tỉnh tinh thần dân tộc.

2. Nghệ thuật

– Thể thơ tự do phóng túng.

– Giọng thơ suy tưởng: đặt câu hỏi và tự trả lời.

– Sử dụng các chất liệu văn hoá dân gian không phải là thủ pháp nghệ thuật mà là để chi phối tư tưởng “Đất Nước là của Nhân Dân”.

– Giọng thơ trữ tình – chính luận.