I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

a. Lai lịch

– Nguyễn Trung Thành tên thật là Nguyễn Văn Báu, ông sinh ngày 5 tháng 9 năm 1932 tại Quảng Nam. Ông có bút danh là Nguyên Ngọc.

– Ông là nhà văn trưởng thành trong cả kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

– Ông gia nhập quân đội năm 1950, hoạt động chủ yếu và gắn bó mật thiết với chiến trường Tây Nguyên.

– Sau Hiệp định Genever ông làm phóng viên và tập kết ra Bắc. Năm 1962 ông trở về Nam vừa tham gia chiến đấu vừa hoạt động văn nghệ.

– Sau chiến tranh ông làm Phó Tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam và Tổng Biên tập báo văn nghệ.

– Hiện nay ông vẫn tham gia hoạt động trong lĩnh vực văn hóa – giáo dục và đã dịch một số tác phẩm lý luận văn học.

b. Phong cách nghệ thuật

Các tác phẩm của ông mang đậm âm hưởng sử thi và cảm hứng lãng mạn:

– Ở đó, chất thơ hoà quyện với độ hoành tráng của núi rừng Tây Nguyên, của  những người anh hùng cách mạng bất khuất, kiên trung với quê hương, đất nước.

– Sức sống bất diệt và khả năng trỗi dậy phi thường của con người, sự sống  luôn được đề cao trong tác phẩm của ông.

c. Tác phẩm chính  

Đất nước đứng lên (1954-1955); Mạch nước ngầm (1960); Rẻo cao (1961); Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (1961); Đất Quảng; Rừng xà nu (1965); Cát cháy…

=> Nguyễn Trung Thành là một trong số những cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị và ghi dấu ấn đậm nét trong nền văn học nước nhà.

2. Tác phẩm

a. Tóm tắt

Sau ba năm tham gia lực lượng cách mạng, Tnú được về thăm làng. Trong đêm ấy, cụ Mết kể lại cho dân làng nghe về câu chuyện của Tnú. Tnú mồ côi từ nhỏ, được dân làng nuôi lớn và sớm tiếp nối tinh thần cách mạng. Tnú tham gia nuôi giấu chiến sĩ cách mạng và làm liên lạc. Tnú vốn là một cậu bé thông minh, can đảm và gan dạ: “chọn nơi rừng khó đi, nơi sông khó qua” để tránh kẻ thù. Lúc bị bắt dám thách thức quân giặc “nuốt vội lá thư và chỉ tay vào bụng mình”. Tnú bị bắt, bị tra tấn dã man nhưng nhất định không khai. Sau khi ra tù, Tnú về làng cưới Mai và cùng dân làng chuẩn bị chiến đấu. Nghe tin đó, thằng Dục – tay sai của chính quyền Mỹ – Diệm đưa lính đến đàn áp. Không bắt được Tnú chúng đem vợ con anh ra đánh đập đến hết. Tnú đau xót xông ra nhưng không cứu được vợ con mà còn bị chúng thiêu đốt mười đầu ngón tay bằng nhựa cây xà nu. Trong khi đó cụ Mết cùng dân làng mang vũ khí cất giấu trong rừng trở về và chiến đấu thắng lợi. Tnú gia nhập giải phóng quân và chiến đấu dũng cảm nên được cấp phép về thăm làng. Cụ Mết tự hào kể về anh cũng như nhắc nhở bài học xương máu: ”Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Cuối truyện là hình ảnh cụ Mết và Dít tiễn Tnú về đơn vị, xa xa là những rừng xà nu, đồi xà nu bạt ngàn, chạy tít tắp đến chân trời.

b. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

– Truyện ngắn “Rừng xà nu” được viết năm 1965 và in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”.

– Truyện được viết khi tác giả đang tham gia chiến đấu chống Mỹ cứu nước và hoạt động trên chiến trường Tây Nguyên anh hùng.

c. Bố cục

– Phần 1 (phần chữ nhỏ): Tnú sau ba năm theo cách mạng giờ về thăm làng.

– Phần 2 (còn lại): cụ Mết kể câu chuyện về cuộc đời của Tnú và người dân làng Xô Man.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Hình tượng cây xà nu

– Cây xà nu là hình tượng bao trùm, là mạch sống mạch hồn của tác phẩm. Khi cầm bút sáng tác thiên truyện này, hình ảnh đầu tiên hiện về trong tâm trí ông là cây xà nu, những cánh rừng xà nu. Hình tượng thiên nhiên ấy đã trở thành chủ âm của tác phẩm, nó chiếm giữ những vị trí quan trọng nhất của truyện ngắn: nhan đề, mở đầu và kết thúc. Hình ảnh cây xà nu còn trở đi trở lại nhiều lần tạo nên không gian đặc trưng của núi rừng Tây Nguyên.

– Cây xà nu gắn bó mật thiết với cuộc sống con người Tây Nguyên. Cây xà nu hiện lên trong tác phẩm là một loài cây đặc thù, tiêu biểu cho vùng đất Tây Nguyên. Qua hình tượng cây xà nu, nhà văn đã tạo dựng được hình ảnh hùng vĩ và hoang dã mang đậm màu sắc Tây Nguyên cho câu chuyện.

– Cây xà nu gắn bó mật thiết với đời sống của dân làng Xô Man, có mặt trong đời sống hàng ngày của dân làng. Lửa xà nu cháy dần dật trong mỗi bếp, trong đống lửa của nhà ưng tập hợp dân làng, khói xà nu xông bảng nứa để Tnú và Mai học chữ. Khi Tnú trở về đơn vị, cụ Mết và Dít đưa anh ra đến rừng xà nu cạnh con nước lớn.

– Cây xà nu còn tham gia vào những sự kiện trọng đại của dân làng: ngọn đuốc xà nu dẫn đường cho cụ Mết và dân làng vào rừng lấy giáo, mác, dụ, rựa đã giấu kĩ chuẩn bị nổi dậy. Mười ngón tay Tnú bị đốt vì giẻ tẩm nhựa xà nu, và chính vì cảnh tượng đau thương ấy dân làng đã nổi dậy để đống lửa xà nu lớn giữa nhà soi rõ xác mười tên lính giặc nằm ngổn ngang.

– Cây xà nu cũng đã thấm sâu vào nếp cảm, nếp nghĩ của người Tây Nguyên. Tnú cảm nhận về cụ Mết ngực cụ căng như cây xà nu lớn. Trong câu chuyện về Tnú, cụ Mết cũng nói về cây xà nu với tất cả tình cảm yêu thương, gần gũi xen lẫn tự hào: Không có gì mạnh bằng cây xà nu nước ta, cây xà nu đã trở thành máu thịt trong đời sống vật chất và tinh thần của con người Tây Nguyên.

– Cây xà nu tượng trưng cho số phận và phẩm chất con người Tây Nguyên trong chiến tranh cách mạng. Ta có thể thấy ý đồ nghệ thuật này khi tác giả miêu tả song hành hai hình tượng cây xà nu và những con người Tây Nguyên.

+ Thứ nhất, thương tích của rừng xà nu do đại bác của giặc gây ra tượng trưng cho những mất mát đau thương vô bờ mà người dân Tây Nguyên phải chịu đựng. Nếu rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào không bị thương thì con người Tây Nguyên cũng vậy. Những câu xà nu con bị đại bác chặt đứt làm đôi thì tượng trưng cho những đứa con của Tnú và Mai. Còn những cây xà nu trưởng thành đại bác không giết nổi chúng thì cũng giống như Tnú và Dít, những con người trưởng thành từ những đau thương mất mát của chiến tranh.

+ Thứ hai, cây xà nu có đặc tính ham ánh sáng, đặc tính ấy tượng trưng cho niềm khát khao tự do của người dân Tây Nguyên. Nguyễn Trung Thành viết ít có loài cây nào ham ánh sáng mặt trời đến thế… Con người Tây Nguyên cũng vậy, luôn khao khát tự do, mặc dù bọn giặc đã giết bà Nhan, anh Xút và cả anh cán bộ Quyết nhưng Tnú và Mai vẫn kiên trì nuôi giấu cán bộ.

+ Thứ ba, khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu và sự rộng lớn của rừng xà nu giúp ta gợi liên tưởng đến sự tiếp nối của nhiều thế hệ người Tây Nguyên. Nguyễn Trung Thành viết: Trong rừng ít có loại cây nào sinh sôi nảy nở khỏe như vậy, cạnh một cây xà nu mới ngã đã có bốn, năm cây con mọc lên xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Làng Xô Man cũng có những thế hệ tiếp nối như vậy: cụ Mết là cây xà nu lớn. Tnú, Mai và Dít là những cây xà nu trưởng thành và bé Heng là cây xà nu con rắn rỏi.

+ Thứ tư, sự tồn tại của rừng xà nu qua những hành động hủy diệt của kẻ thù tượng trưng cho sức sống bất diệt và khả năng vươn lên mạnh lẽ của con người Tây Nguyên trong chiến đấu.

– Hình tượng rừng xà nu có quan hệ mật thiết với hình tượng nhân vật Tnú. Hai hình tượng này không tách rời nhau mà gắn bó khăng khít với nhau. Rừng xà nu không thể trải mãi tới chân trời trong màu xanh bất diệt khi con người chưa thấm thía bài học chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo.

=> Hình tượng cây xà nu là hình tượng xuyên suốt tác phẩm tượng trưng cho vẻ đẹp hào hùng đầy sức sống của thiên nhiên và con người Tây Nguyên. Qua đó, chất thơ và chất sử thi hòa làm một thể hiện rõ phong cách văn xuôi Nguyễn Trung Thành: vừa say mê, vừa trầm tư, vừa giỏi tạo hình vừa giàu tính khái quát.

2. Hình tượng các nhân vật trong tác phẩm

a. Nhân vật Tnú

– Trong dụng ý nghệ thuật của mình, nhà văn Nguyễn Trung Thành muốn nói: Rừng xà nu là truyện của một đời được kể trong một đêm. Người mà cuộc đời được kể trong một đêm ấy chính là Tnú.

– Tnú là người trung thành với cách mạng:

+ Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được dân làng Xô Man nuôi dưỡng, tham gia vào việc nuôi giấu cán bộ cách mạng và luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nhiều đêm Tnú phải ngủ trong rừng vì sợ lỡ giặc lùng, ai dẫn cán bộ chạy.

+ Nghe anh Quyết học chữ, Tnú lấy trẻ nứa làm bảng. Tnú đi ba ngày đường tới núi Ngọc Linh mang về một xà lét đầy đá trắng làm phấn. Trong lúc học chữ, Tnú tỏ ra tối dạ, học hoài không nhớ nên tự lấy đá đập vào đầu chảy máu nhưng chỉ một lời động viên của anh Quyết thì Tnú lại càng quyết tâm.

– Gan dạ, dũng cảm và mưu trí:

+ Đi liên lạc, Tnú không bao giờ chịu đi đường mòn. Giặc vây các ngả, Tnú nhìn quanh một lượt xé rừng mà đi. Qua sông, Tnú không lựa chỗ nước êm, mà cứ lựa chỗ thác mạnh để bơi ngang vì Tnú biết rằng qua chỗ nước êm, thằng Mĩ Diệm hay phục, chỗ nước mạnh nó không không ngờ.

+ Khi bị giặc bắt, Tnú nuốt thư vào bụng, chấp nhận bị tra tấn chứ không khai. Khi bị giặc đốt mười đầu ngón tay, Tnú không hề kêu than mà cắn răng chịu đựng.

– Tnú là người yêu thương bản làng:

+ Sinh ra giữa núi rừng Tây Nguyên, Tnú rất yêu thương bản làng của mình. Ba năm đi chiến đấu xa bản làng, khi trở về, Tnú vô cùng xúc động. Anh nhớ từng hàng cây, con đường, dòng suối mát và nhớ nhất là tiếng chày giã gạo.

– Tnú rất yêu thương vợ con:

+ Tnú yêu Mai bằng một tình yêu chân thành và mãnh liệt vì nó bắt nguồn từ tình bạn bè, tình đồng chí. Khi trở về làng, nhìn gốc cây xà nu, những kỉ niệm thời thơ ấu lại ùa về những kỉ niệm đó cắt vào lòng anh như một nhát dao.

+ Ngày con Tnú chào đời, vì bận công tác, Tnú không đi Kon Tum mua vải con con được, anh phải xé đôi tấm đồ của mình ra làm tấm chaonfg cho Mai địu con.

+ Vì bí mật cách mạng, Tnú buộc phải núp sau một cây vả để chứng kiến kẻ thù man rợ dùng cây sắt đánh đập, tra tấn dã man vợ con anh. Tnú đau đớn dữ dội nhưng anh không làm gì được, tay anh bứt hàng chục trái vả mà không hề hay biết. Khi nghe tiếng con ré lên rồi im bặt, căm thù dồn nén không chịu được nữa, anh lao vào lũ giặc với thiết thét lớn. Rồi anh hành động thật đẹp: Anh dang hai cánh tay rộng lớn như lao cánh lim chắc ôm lấy mẹ con Mai, mặc dù anh hiểu rằng sẽ bị giặc bắt và giết chế. Tnú không cứu được hai mẹ con Mai vì anh chỉ có hai bàn tay không.

– Tnú căm thù giặc:

+ Tnú mang trong tim ba mối thù: Mối thù bản thân, lưng Tnú dọc ngang vết dao giặc chém, mười đầu ngón tay bị đốt; mối thù của gia đình, vợ con chết thảm dưới cây roi sắt của giặc; mối thù buôn làng, Tnú không bao giờ quên hình ảnh những cánh rừng xà nu bị tàn phá, những người dân vô tội bị sát hại.

+ Khi nhìn cảnh vợ con bị giặc tra tấn, căm thù dồn nén đã biến đôi mắt anh thành hai cục lửa lớn.

+ Khi giặc đốt mười đầu ngón tay bằng nhựa xà nu, ngay lập tức mười ngón tay Tnú thành mười ngọn đuốc. Anh không cảm thấy lửa mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Tnú thét lên một tiếng, tạo thành sức mạnh căm hờn để dân làng Xô Man vùng lên giết sạch kẻ thù.

+ Tnú dùng chính đôi bàn tay thương tật của mình để cầm súng, để trả thù nhà, trả nợ nước.

– Tnú có tính kỉ luật cao:

+ Ba năm đi bộ đội, Tnú rất nhớ nhà, nhớ quê hương. Được cấp trên cho phép về một đêm và anh cũng chỉ về một đêm đúng như quy định.

– Ý nghĩa đôi bàn tay của Tnú:

+ Bàn tay dám cầm đá đập vào đầu để trừng phạt mình vì học hay quên. Bàn tay đã từng đặt lên bụng mình và nói với giặc cộng sản đây này. Bàn tay ấy cũng đã từng che chở cho mẹ con Mai trước đòn roi của giặc.

+ Bàn tay Tnú là bàn tay của sự hận thù, vì bàn tay ấy đã thành thương tật do giặc Mĩ gây ra. Dù thương tật, nhưng bàn tay ấy vẫn cầm súng trả thù nhà, nợ nước.

=> Câu chuyện về cuộc đời và con đường của Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu của người anh hùng đại diện cho số phận và con đường của các dân tộc Tây Nguyên trong giai đoạn chống Mĩ cứu nước. Với nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành tiếp tục khẳng định sự thành công của mình khi viết về đề tài Tây Nguyên.

b. Nhân vật cụ Mết

– Ngoại hình:

+ Ngoài sáu mươi tuổi mà vẫn khỏe mạnh.

+ Bàn tay nặng trịch như cái kìm sắt.

+ Râu dài tới ngực mà vẫn đen bóng.

+ Mắt sáng và xếch ngược.

+ Ngực căng như một cây xà nu lớn.

– Tính cách:

+ Là một già làng có uy tín, khi cụ nói mọi người đều im bặt, đặc biệt cụ không bao giờ khen tốt, giỏi, vừa ý lắm thì cụ nói được.

+ Có kinh nghiệm trong chiến đấu, cụ biết khi nào là phải nhẫn nhịn, là khi mình chỉ có hai bàn tay không (cụ không cho Tnú nhảy vào khi bọn lính đang đánh đập Mai) nhưng cụ lại kịp thời lãnh đạo giết chết mười tên lính.

+ Cụ giáo dục lòng yêu nước và tinh thần cho dân làng Xô Man: Đảng còn, núi nước này còn. Cụ dạy cho dân làng Xô Man chống giặc Mĩ bằng con đường vũ trang: chúng nó cầm súng, mình cầm giáo.

– Tình yêu quê hương bản làng:

+ Cụ rất tự hào về bản làng, về con người Strá, cụ nói: Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Gạo người Strá mình làm ra ngon nhất núi rừng này đấy. Yêu quê hương bản làng, cụ nuôi dấu cán bộ và quyết cùng dân làng Xô Man đấu tranh bảo vệ buôn làng Tổ quốc.

+ Cụ yêu thương dân làng tha thiết: Nhường muối cho người đau. Gặp lại Tnú sau ba năm xa cách, cụ vừa vui vừa cảm động và đãi Tnú ăn những món ăn đặc biệt của bản làng.

c. Nhân vật Mai

– Là một người phụ nữ thông minh, dịu dàng, thủy chung và kiên cường.

– Thuở nhỏ, Mai đã là giao liên cùng Tnú vào rừng tiếp tế và bảo vệ cán bộ. Mai thông minh học chữ giỏi.

– Khi đã trở thành người vợ, người mẹ, Mai dũng cảm lấy thân mình bảo vệ cho đứa con và kiên quyết không khai một lời nào với giặc.

d. Nhân vật Dít

– Thuở nhỏ là một cô bé can đảm, nhanh nhẹn.

– Ngày làng bị khủng bố, Dít bò theo máng nước vào rừng để tiếp tế lương thực cho bộ đội, bị giặc bắt, giắc bắn dọa: đạn sượt qua tai, sém tóc. Dít khóc thét lên nhưng đến viên thứ mười, nó im lặng và bình thản nhìn bọn giặc.

– Dít căm thù giặc thật là lạnh lùng: Ngày Mai chết cả làng đều khóc, cụ Mết và Tnú khóc, riêng Dít không khóc, mà dồn nén yêu thương để nung nấu căm thù bằng cách dã gạo để Tnú đi trả thù cho chị.

– Cô lớn lên trở thành một chi bộ thật vững vàng, nhiệt huyết, công tư rất rõ ràng. Ngày Tnú về thăm làng, cô rất mừng nhưng vẫn hỏi giấy phép.

e. Nhân vật bé Heng

– Là một cậu bé lầm lì, ít nói và là một du kích giữ làng tốt.

– Bé Heng rất rành hầm chông hố chông của làng mình.

=> Nhà văn đã khắc họa rất thành công hình ảnh một tập thể anh hùng của làng Xô Man. Rừng xà nu là một bước tiến xa so với Đất nước tiến lên ở tầm khái quát, sự chọn lọc và dồn nén những cảm xúc.

III. Tổng kết

1. Giá trị nội dung

Đây là chuyện của một đời người được kể trong một đêm. Đồng thời đó cũng là chuyện về những con người ở một bản làng Tây Nguyên, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận. Qua đó, tác giả đặt vấn đề có ý nghĩa lớn lao đối với dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của nhân dân và đất nước mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn ác.

2. Giá trị nghệ thuật

– Đặc sắc, đậm đà chất sử thi hùng tráng:

 + Đề tài có ý nghĩa lịch sử: Cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man

  + Bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng. Rừng xà nu làm nền cho bức tranh về cuộc đấu tranh chống giặc “Cả rừng … ào ào rung động, lửa cháy khắp rừng”, ….

+ Các nhân vật tiêu biểu được miêu tả trong bối cảnh trang nghiêm, hùng  vĩ, vừa mang phong cách Tây Nguyên vừa mang phẩm chất của anh hùng  thời đại: Tnú, Dít, Heng,…

+ Giọng điệu và ngôn ngữ trang trọng, mang đậm sắc màu Tây Nguyên.

 – Kết cấu vòng tròn: mở đầu, kết thúc là hình ảnh rừng xà nu.

 – Cách thức trần thuật: kể theo hồi tưởng qua lời kể của cụ Mết (già làng), kể bên bếp lửa gợi nhớ lối kể ” khan”- giống sử thi của các dân tộc Tây Nguyên.