Nhà thơ Lê Đạt sinh ngày 10.9.1929, quê quán A Lữ, Bắc Giang. Tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn học từ đó đến nay.
Các tác phẩm đã xuất bản: Bài thơ trên ghế đá (thơ, 1955), Bóng chữ (thơ, 1994), Ngó lời (thơ, 1997), Hèn đại nhân (truyện ngắn, 1994). Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007. Ông mất năm 2008.
Cùng với Trần Dần, Lê Đạt đã làm một cuộc cách – tân – thơ âm thầm suốt 30 năm và thế hệ các ông đã ghi dấu ấn khởi đời cho chặng đường nhọc nhằn đối mới thi ca Việt Nam sau thơ Tiền chiến. Lê Đạt tâm sự: “Ngay từ nhỏ, tôi đã ôm ấp mộng cách tân thơ Việt — lẽ dĩ nhiên lúc đó tôi không ý thức được rõ rệt nên cách tân như thế nào. Sau Cách mạng tháng 8, nhà thơ ảnh hưởng đến tôi nhiều nhất là nhà thơ Xô-viết Mayakovsky. Tôi thích những hình ảnh quả đấm hết sức táo bạo cũng như những bài thơ quảng trường mạnh mẽ tham gia trực tiếp vào quá trình thay đổi xã hội của ông. Ảnh hưởng của Mayakovsky rất đậm nét trong những bài thơ đầu tiên có những hình ảnh sinh sự, khiến tôi ít nhiều được công nhận như một nhà thơ cách tân: Những kiếp người sống lâu trăm tuổi/ Y như một dãy bình vôi / Càng sống càng tồi / Càng sống càng bé lại.
Tuy cùng khởi cuộc cách tân như nhau, nhưng Lê Đạt khác với Trần Dần. Ông đã dành hết tâm sức của mình cho một cuộc chơi mới, cuộc chơi của một nhà “phu chữ” (như cách dùng từ của Lê Đạt). Trong bài thơ “Bóng chữ”, một bài đặc trưng cho phong cách Lê Đạt, cái cảm xúc trữ tình của thơ tiền chiến đã được chuyển hoá sang một dạng trữ tình khác, nó không dạt dào, sướt mướt ở bề mặt chữ, nó khơi gợi sự âm vang bất ngờ từ bề sâu của một cảm xúc, một suy tư:
Chia xa rồi anh mới thấy em
Như một thời thơ thiếu nhỏ
Em về trắng đầy cong khung nhớ
Mưa mấy mùa
mây mấy độ thu
Vườn thức một mùi hoa đi vắng
Em vẫn đây mà em ở đâu
Chiều Âu Lâu
bóng chữ động chân cầu
Câu kết của bài thơ mang trong nội hàm của chữ một dư âm mới. Qua bài thơ này, Âu Lâu không còn là một địa danh trữ tình của riêng nhà thơ nữa khi bóng chiều, bóng chữ hay bóng người tình xưa còn đang vang động ở phía chân cầu của ký ức vì khu vườn xưa vẫn thức một mùi hoa đi vắng mặc dù mưa đã mấy mùa và mây mấy độ thu. Lê Đạt là một thi sĩ dày công chăm bón chữ nghĩa. Tôi có cảm giác trước khi gieo trồng mỗi câu thơ của mình, ông làm chữ kỹ càng tới mức “xói đất, lật cỏ” như một nông phu cần mẫn làm đất chuẩn bị mọi thứ cho một vụ mùa gieo trồng mới của họ. Nhưng khác với công việc cày ải, gieo trồng của các nông phu, công đoạn làm chữ của một nhà thơ theo kiểu “phu chữ” luôn cần tới một tố chất thiên bẩm khác, đó là khả năng khơi dậy sự sống động của cảm xúc và trí tưởng tượng từ những con chữ vô tri, vô giác theo một cấu trúc ngôn ngữ thơ:
Anh tìm về địa chỉ tuổi thơ
Nhà số lẻ
phố trò chơi bỏ dở
Mộng anh hường
tìm môi em bói đỏ
Giàn trầu già
khua
những át cơ rơi.
Bài thơ “Át cơ” nói trên của Lê Đạt ngay từ khi mới công bố đã gây nhiều tranh cãi khác nhau, nhưng bất luận thế nào thì mọi người đều nhất trí đây cũng là một bài thơ hay. Cái hay của nó không chỉ bởi sự liên tưởng của nhiều hình ảnh lạ xuất hiện trong một bài thơ rất ngắn, mà cái hay của nó còn nằm ở kỹ năng chơi chữ rất tài hoa và tinh tế kiểu Lê Đạt, đã khiến cho mỗi người đọc bài thơ lại nhận thấy có một tâm tưởng khác, một cảm hứng khác, một khung trời khác sau những câu thơ mang vẻ đẹp bí ẩn nói trên.
Luận bàn về thú chơi chữ trong thơ, Lê Đạt từng khẳng định trong Đường chữ:”Người làm thơ chơi những phép tu từ như một thứ bẫy vô thức. Anh ta sinh sự với ngữ nghĩa và ngữ pháp để tạo ra một sự sinh mới cho thơ. Người làm thơ rắp tâm biến ngôn ngữ tiêu dùng thành một thứ ngôn ngữ trò chơi (hiểu theo nghĩa mạnh) trong một trạng thái nửa tỉnh nửa mơ mà Roland Barthes gọi là một sự chú ý bồng bênh (attention flottante). Chính cái trò chơi hết mình này khiến Freud coi các nghệ sĩ như một thứ trẻ con lớn tuổi có khả năng đánh thức bản năng trò chơi của độc giả. Người chơi chữ dễ dàng được coi là người thông minh. Chơi như vậy là chơi đùa. Nhà nghệ sĩ cũng như đứa trẻ không chơi đùa mà chơi thật, khiến trò chơi chữ không còn là một trò chơi đơn thuần dựa trên óc thông minh của một người tỉnh táo mà dựa trên toàn bộ trí năng cũng như cảm năng của một kẻ đam mê bị thánh ốp trong một cơn thượng đồng của chữ”. Thiết nghĩ, bàn về sự chơi chữ trong thơ đến thấu đáo như vậy thì cũng đã đủ cho chúng ta thấy Lê Đạt uyên bác và tinh tế trong cách dùng chữ nghĩa như thế nào.
Sau Bóng chữ, Lê Đạt đã dành gần 200 trang thơ trong tập Ngó lời (NXB Văn học, 1997) để trình bày một cuộc chơi mới của mình với gần 300 bài thơ viết theo kiểu thơ Hai kâu (đồng dạng với thể thơ Hai – cư của Nhật Bản). So với những cách tân quyết liệt của Trần Dần thì Lê Đạt đi theo một hướng khác, ông cố gắng đưa ra một hệ thống mỹ cảm mới trong sự cách điệu những con chữ mà bài thơ “Quan họ” sau đây là một ví dụ điển hình:
Tóc trắng tầm xanh qua cầu với gió
Đùi bãi ngô non
ngo ngó sông đầy
Cây gạo già
lơi tình
lên hiệu đỏ
La lả cành
cởi thắm
để hoa bay
Em về nói làm sao với mẹ
Em trường nét gốm thon bình cổ đại
Mình Lưỡng hà
thoai thoải
vú Đông Sơn
ước gì
nhỏ đấy bằng con giống
Bỏ túi đi cùng
ta phố bông tình bông.
Ở bài thơ trên, nhịp thơ vẫn cũ nhưng hình ảnh và âm điệu thơ đã mới rất nhiều. Cái hình tượng: “Đùi bãi ngô non ngo ngó sông đầy” là một phát hiện mới rất Lê Đạt về mặt mỹ cảm và không chỉ xuất hiện một lần; ngay trong đoạn thơ sau đó, ông lại múa bút vẽ những nét xuất thần để độc giả thơ được thấy: “Em trường nét gốm thon bình cổ đại / Mình Lưỡng hà thoai thoải vú Đông Sơn”. Cái đẹp rung động này mang hơi thở ngàn năm của đất đai, sông núi và mãi trường tồn như ngàn khúc dân ca miền Kinh Bắc. Đây là một bài thơ đặc sắc viết về Quan họ với cách nhìn rất mới của Lê Đạt khi âm điệu câu thơ dường như còn nhấn nhá, ngân nga theo nhịp hát Quan họ: “Cây gạo già lơi tình lên hiệu đỏ / La lả cành cởi thắm để hoa bay”, nhưng hình ảnh bao trùm lên toàn bộ bài thơ là một không gian đầy sức sống của vẻ đẹp phồn sinh đang hiện hữu trong từng câu chữ.
Nội dung bài viết
PHỎNG VẤN NHÀ THƠ LÊ ĐẠT
Cách ngày nhà thơ Lê Đạt mất vài tháng, tôi đã có cuộc chuyện trò khá thú vị về thi ca hiện đại với ông tại nhà riêng phố Phó Đức Chính (Hà Nội). Và tôi cũng không ngờ rằng đấy là buổi cuối cùng được gặp ông. Buổi sáng hôm ấy, sau khi tâm sự về gia cảnh, nhà thơ vui vẻ cho biết: “Tôi vừa in cuốn U75 tự tình tập hợp những bài thơ mình viết từ năm 70 – 80 tuổi”.
* Thưa nhà thơ, tập U75 từ tình có những thể nghiệm thơ khác với trước đây không?
– Khác nhiều chứ, nó khác với thể loại thơ hai-kâu (hai-ku) trước đây của mình. Một nhà thơ nước ngoài đã nói: “Khi ngôn ngữ thơ là hình ảnh, nó trói buộc ta trong một nhà tù rất ghê gớm và thoát ra khỏi nhà tù ấy là bước đầu tiên đã dám đối mới, ra dám sống mới”. Điều ấy quan trọng lắm với tôi cho rằng cách tân là quan trọng nhất. Vì những câu thơ hay bao giờ cũng xuất phát từ cách nhìn mới, bởi hiện tượng chính là tự nhiên cùng với cách quan sát về nó, nên thay đổi cách nhìn là điều quan trọng nhất đối với một nhà thơ. Trong tập thơ này của tôi, ngoài phần thơ hai-kâu còn thêm phần đoản ngôn rất mới và là một hình thức suy nghĩ ngắn gọn về nghệ thuật và cách ứng xử trong cuộc đời. Thể thơ đoản ngôn này thoải mái hơn thể thơ hai-kâu vì nó viết theo kiểu văn xuôi.
* Vậy thưa nhà thơ, đời sống xã hội, đời sống nhân văn được thể hiện trong đó thế nào?
– Đây là những suy nghĩ của tôi trong rất nhiều năm trời vì các thể thơ trước đây không thể nói hết được nên tôi chuyển sang thể thơ đoản ngôn. Nó bổ sung cho phần thơ hai-kâu trước đây của mình với tiêu chí: chữ ngắn – tình dài – chở được nhiều. Như câu thơ “Khi thánh hiền dạy các tông đồ phải chống lại bản thân thì họ lại hiểu rằng phải chống lại kẻ khác”.
* Ông đánh giá sao về những đóng góp của Trần Dần, Hoàng Cầm trong lĩnh vực cách tân thơ?
– Theo chúng tôi, Trần Dần là trưởng môn phái của thơ cách tân thế hệ chúng tôi, nên anh ấy rất quyết liệt, bận tâm với việc đổi mới thơ. Nhưng cái nhược điểm của anh là hơi cứng nhắc, hơi ý chí chủ nghĩa. Tôi vẫn coi thơ Trần Dần là một bản giao hưởng của lý trí. Còn Hoàn Cầm thì anh ấy không bận tâm về đổi mới, cách tân thi ca nhưng giời cho anh ấy thơ và tập Kinh Bắc là một tập thơ rất hay và có nhiều cái mới.
* Còn các thế hệ thơ trẻ hôm nay, thưa nhà thơ?
– Thế hệ trẻ rất được nhưng chưa nên nói nhiều về nó, họ là tương lại của thi ca Việt Nam nhưng họ cần phải thấy được trách nhiệm lớn lao và phải lao động thật sự nghiêm túc hơn nữa, học nhiều hơn nữa. Cái quan trọng là họ khác Thơ mới tiến chiền. Phần sôi nổi của thơ trẻ cũng quan trọng, nhưng phải lắng sâu mới là điều cốt lõi và phần lắng sâu trong thơ trẻ hơi ít trong khi phần nổi thì hơi nhiều. Với các nhà thơ trẻ, cái khẳng định mình là quan trọng, nhưng cái suy nghĩ về bản thân mình cũng rất quan trọng. Các nhà thơ trẻ để tránh khỏi nhạt nhẽo, sáo mòn thì không nên đến cửa hàng đặc sản gọi cho mình một món bi kịch và không nên tự bịa ra bi kịch để tập dượt vì bi kịch chẳng phải ở đâu xa mà ở ngay trước mặt khi bạn chọn nghiệp làm thơ, thơ là một lạng cảm hứng cộng với một tạ mồ hôi.
* Điều quan trọng cốt lõi của nghề thơ là gì, thưa nhà thơ?
– Điều quan trọng nhất là phải lao động thơ một cách cần mẫn và không ngừng nâng cao văn hóa. Các nhà thơ cần phải cố gắng hơn nữa để cho độc giả thơ chấp nhận mình. Trong động tác nhân, tôi ghét nhất là dậm chân tại chỗ vì nó đi mà vẫn vững; trong mọi thứ phải vội thì không nên vội khi làm chữ và khi tự tử.
Cuối buổi chuyện trò nói trên, nhà thơ Lê Đạt còn dò dẫm từng bước cầu thang xuống nhà, tiễn tôi tận cửa. Tôi cũng không thể ngờ được rằng, mấy tháng sau, cũng trên những bậc cầu thang ấy, sau chuyến đi thực tế ở Tây Nguyên, vừa về tới Hà Nội, khi nhà thơ xuống gác, ông đã bị vấp ngã và chấn thương nặng, sau đó qua đời. Giờ, nhà thơ Lê Đạt đã ở rất xa nhưng tôi vẫn còn thấy văng vẳng bên tai câu nói đầy thi vị của ông: “Bi kịch chẳng phải ở đâu xa mà ở ngay trước mặt khi bạn chọn nghiệp làm thơ, thơ là một lạng cảm hứng cộng với một tạ mồ hôi.
THƠ LÊ ĐẠT
GỐC KHẾ
Khi gió mùa anh đi Sang sông tìm nắng khác
Để mẹ già tóc bạc Lưng còng trên gậy tre Để người yêu ngơ ngác Gốc khế xanh đầu hè
Ba năm anh không về Mẹ già anh ngơ ngác Lưng còng đau gậy tre Người yêu anh đốm bạc Tóc khế xanh đầu hè
Ba năm anh không về Ba năm rồi ba năm Mẹ anh thành nấm đất Người yêu anh cũng đi Gốc nửa ngày khế chát Sót bóng hoa mơ chờ.
THU NHÀ EM
Anh đến mùa thu nhà em Nắng cúc lăm răm vũng nhỏ Mà cho đấy rửa lông mày Nông nỗi heo may từ đó
Mưa đêm tuổi nổi ao đầy Đồi cốm đường thon ngõ cỏ Bướm lượn bay hoa ngày Tin phấn vàng hay thuở gió
Tóc hong mùi ca dao Thu rất em và xanh rất cao.
QUÊ TẦM XUÂN
Em như tấm bản đồ thân chữ nổi Dắt anh lần mò nguyên quán tầm xuân Thời gian mù bạc đầu lau ăn lối Đảo vô tâm neo buột nhớ mưa dầm.
VÀO HÈ
Sớm hạ búp sen đôi gió Sóng đòng buồm nhấp nhô thơm Tóc liễu trường tân thơ cổ Trời xanh côban rất Đường
Anh đời bến nước tên em mát Đội mắt em qua mấy nắng rồ Ơi em rất ô Ơi em rất hồ Trắng vỗ ồ hô trúc bạch Bước động ngày thon róc rách.
PHỐ NÊ ÔNG
Lấp ló đèn xanh tuổi nụ Giò thủy ngân trổ ngần Boong phố nổi chòm nê-ông lạ Hồ chành mi thổi viễn dương xanh Chiều thả bóng những con tàu giấy Em vườn hoa đảo tím chân chim.
SÁNG SOI
Anh mang tình em đi Qua những đèo lẻ nắng Những sông trưa không đò Những đường mưa ngẩn trắng
Anh mang tình em đi Qua những đồi sim chín Những sắc cây mơ già Mua rừng hoa múa tím
Anh mang tình em đi Qua những miền đất lạ Những sớm chim dị hình Những chiều sương bạc má Dông gió mù trời em bóng sáng soi.