TRẦN DẦN
(1926 – 1997)
Taodan.com.vn – Nhà thơ Trần Dần sinh ngày 23.8.1926 ở thành phố Nam Định, Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957). Sau khi đỗ tú tài phần II ở Hà Nội, Trần Dần bắt đầu tham gia cách mạng, kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.
Các tác phẩm chính đã xuất bản: Người người lớp lớp (1954), Bài thơ Việt Bắc (1990), Cổng tỉnh (1994), Mùa sạch (1997)… Ông đã được trao tặng giải thưởng thơ của Hội Nhà văn Việt Nam – 1995 và Giải thưởng Nhà nước về Văn học – Nghệ thuật – 2007.
Trần Dần mất ngày 17.1.1997 để lại một di cảo thơ khổng lồ, gồm những sáng tác thể nghiệm của ông qua nhiều giai đoạn đang được gia đình và bạn bè chuẩn bị cho xuất bản.
Có thể nói ông là người có công đầu trong việc “chôn” thơ tiền tuyến và cả thứ thơ bắt chước thơ tiền chiến 1930-1945, để sáng tạo, để mở ra một thời đại mới cho thi ca đúng như lời tâm sự của ông: “Trung thực một lòng cho đổi mới văn học. Phải “chôn” văn học tiền chiến (Tự lực văn đoàn, Thơ mới,…) vào lịch sử. Có như vậy mới mở ra được một thời đại văn học thực sự mới. Làm thơ là làm con chữ. Con chữ nó đẻ ra nghĩa, sẽ được nhiều nghĩa. Cái biết rồi là nghĩa, cái chưa biết là chữ. Nếu làm thơ mà làm nghĩa, rồi mới mượn chữ để diễn đạt nghĩa thì nghĩa sẽ hẹp. Cái chưa biết là cái thăm thẳm, cái chưa biết mới là cái mới”.
Theo tôi, câu thơ nổi tiếng Trần Dần viết năm 1988-1989:
Tôi khóc những chân trời không có người bay
Lại khóc những người bay không có chân trời
thuộc vào hàng những câu thơ hay nhất Việt Nam và thế giới trong cả thế kỷ qua, khi nó mang trong mình một cái nhìn mới, một tư tưởng mới, một tinh thần mới, một triết lý mới. Câu thơ đã làm ta chấn động và ngạc nhiên về sức “hủy diệt” của nó đối với những câu thơ sáo rỗng, mượt mà trữ tình theo kiểu thơ tiền chiến trước năm 1945. Đây thực sự là một câu thơ “chôn lấp” kiểu Trần Dần, khi ông thật lòng khóc tiễn đưa những người bay không có chân trời của thi ca tiền chiến và khóc “diễu” những chân trời không có người bay kiểu thi ca tiền chiến. Sâu xa hơn và bi kịch hơn, hình như trong bài thơ này ông còn ngậm ngùi khóc riêng cho nỗi đau của thế hệ mình:
Tác phẩm là bản gốc? đời là bản sao?
ối ôi, luôn tam sao thất bản
Tôi khóc những chân trời không có người bay
Lại khóc những người bay không có chân trời
Tôi khóc những chân trời – bụi đỏ
ở đó: vắng người
không có người biết khóc – các chân mây
vô tư như thuở ngày xưa
Nhìn một vì sao
buồn bên ngưỡng cửa
Em hãy giữ gìn đôi mắt lệ.
Đừng đau mứt lệ hạ huyền
Nỗi buồn sáng thế còn nguyên.
Thơ Trần Dần luôn có những cái nhìn khác thường, những ý tưởng mới lạ theo một hệ quy chiếu mới để thay đổi sự phát sáng của những con chữ ở các góc độ tượng thanh, tượng hình khác nhau. Ông huy động tối đa nội lực của từng con chữ để tự nó vận động dưới một hình thái mới của thơ nhằm mang đến một ý nghĩa mới, một khái niệm mới, một suy tư mới cho mỗi đơn vị câu. Viết về mưa, nhà thơ nhìn thấy một thành phố sau mưa sạch đến hồn nhiên, sạch đến lãng mạn, sạch từng chiếc cột đèn đến từng con chim sẻ,… và sau sự làm sạch của mưa này, những ý nghĩ u ám trong tâm tưởng con người tưởng như cũng được gột rửa nhẹ nhõm phần nào để bốn bề các tia mắt sạch nhìn nhau:
Đại lộ sau mưa thủy mạc
Hoa viên lòng lọc bộ hành
Xòng xọc tàu lên sạch một mạch
Cột đèn mưa sạch
Con chim sẻ sạch
Tôi đi sành sạch
……………Bốn bề
Tia mắt sạch nhìn nhau.
Nhưng không chỉ có thế, trong tập thơ Mùa sạch, Trần Dần còn đi một mạch từ Đỉnh sạch đến Tìm em qua một trường điệp sạch, qua một tuần lễ sạch từ thứ hai đến chủ nhật sạch với những câu thơ: Miền sạch/ Thuyền sạch/ Bút sạch/ Vút sạch/ Súng sạch/ Đàn sạch/ Lưng sạch/ Vị sạch/ Tua rua sạch/ Tỉnh sạch… Các bài thơ sạch này được cấu trúc trên một nền từ sạch cứ được kiên trì nhắc đi nhắc lại, điệp đi điệp lại qua nhiều trang thơ tạo nên một trường điệp từ, một ám thị từ… để quy nạp mọi thứ trên đời vào một hệ thống sạch của riêng Trần Dần. Tôi nghĩ rằng, có thể thoạt đầu, không ít người đọc thơ ông sẽ có cảm thấy “sốt ruột”, mệt mỏi và khó chịu khi thấy nhiều bài thơ trong tập Mùa sạch ông cứ lặp đi lặp lại một trong 4 từ “Trong – Sạch – Mùa – Sáng”. Nhưng rồi đọc kỹ mới thấy được cái thú vị của thơ Trần Dần lại nằm chính ở cái ngữ điệu ấy, bởi dường như nó đã phản ánh được cái tâm thế sống của chúng ta trong suốt thời bao cấp khi con người phải kiên nhẫn xếp hàng “hết ngày dài tới đêm thâu” trước mọi cửa hàng, mọi thứ thủ tục hành chính… Và phải chăng khi những câu thơ nối đuôi nhau, xếp hàng vòng vèo trên mặt giấy theo một định – hướng – từ cứ lặp đi lặp lại như vậy thì nó chính là nhịp điệu mòn mỏi của những cuộc xếp hàng mù mịt trong quá khứ. Và khi nhà thơ lên tiếng đòi mọi thứ trên đời đều phải sạch cả, phải trong cả, phải sáng cả thì đúng lúc ấy, đất nước chúng ta đã bước vào công cuộc đổi mới để xóa đi sự trì trệ, bảo thủ của một thời bao cấp ấu trĩ. Có một điều lạ lùng là thơ Trần Dần trong Mùa sạch hồn nhiên vằng vặc như đồng dao, một thứ đồng dao cho người lớn – mới hát thấy lạ, hát lâu thấy buồn.
Trần Dần không chủ trương áp đặt nghĩa cho chữ, ông chỉ làm mới những con chữ để tự thân nó phát sáng lên cái nghĩa mới của nó. Trong di cảo thơ đồ sộ của ông, rất nhiều bài thơ mang trong mình một lẽ sống Trần Dần, một nội quan cảm xúc Trần Dần, một triết lý nhân văn kiểu Trần Dần mà đoạn thơ dưới đây là một cửa – sổ – mới:
Nước mất… Ăng kor còn?
mưa rơi không cần phiên dịch
người?
người là
một động vật tượng trưng?
phi tưởng tượng – bất thành phu phụ?
từ chữ thơ đi vào cuộc lữ?
duy
một
trần dần
con mắt – chạy vào trong?
tôi đau ở…
mỗi người một vụ án?
mỗi người
chôn
sống – một chân mây?
tôi đau ở
tôi thờ văn tự xứ này lên”
tất cả diễn ra trong khói một tia nhìn?
tất cả diễn ra trong lá vắng một tia nhìn?
Thật kỳ lạ và độc đáo khi Mưa rơi không cần phiên dịch, khi Mỗi người – chông sống một chân mây – những câu thơ lạ tới mức nó vượt lên như một suy – tưởng – lớn, một ám – thị – lớn, nó lặng lẽ tỏa sáng bởi chỉ duy nhất có một Trần Dần – con mắt chạy vào trong. Tôi cứ ngỡ rằng, sự cách tân trong thơ Việt Nam nửa thế kỷ qua phải cần tới một thi tài lớn như Trần Dàn mới thực sự làm được một cuộc lay chuyển, làm sụp đổ cái nền móng xưa đã rạn mòn của thi ca tiền chiến cứ véo von trầm bồng trong thơ Việt suốt những năm qua. Trong cuộc đời thơ của mình, Trần Dần đã Khuấy động những hải dương buồn, những chân trời biển đắng và ông đoan chắc rằng mình là một: Người thơ/ không rắc nước hoa/ lên những bông hoa mình trồng. Ta gặp trong thơ Trần Dần những ý tưởng lớn, nó được viết ra một cách tự nhiên như hơi thở ông thở hàng ngày, như nỗi đau ông phải nếm trải trong mỗi chặng đời, để từ đó chắt ra sự minh triết của những con chữ cô đơn đã sưởi ấm tâm hồn nhà thơ trong những ngày ông bị xua đuổi, lãng quên:
THƠ DẦN TRẦN TUYỂN CHỌN
1 | Tình yêu |
2 | Khai từ |
3 | Viếng Bùi Xuân Phái |
4 | Không đề số 4 |
5 | Sổ bụi 1987 |