Nói đến thơ ca Việt Nam đầu thế kỷ XX, không thể không nhắc tới Tản Đà. Trước khi làn sóng thơ mới của thế hệ Thế Lữ, Huy Cận, Xuân Diệu… tràn đến trên xứ sở này, Tản Đà có lẽ là người xứng với hai chữ thi sĩ nhất ở nước Nam. Người nổi danh về thi phú văn chương từ khi còn nhỏ tuổi, sớm đã có ý thức chỉ dựa vào cây bút mà nên nghiệp cả đời. Những năm 1920 đang là lúc người anh hoa phát tiết, đang thời đắc ý, bút lực dồi dào nhất. “Cảm thu – Tiễn thu” ra đời khi đó, là một trong những bài thơ hay nhất của người thi sĩ núi Tản sông Đà.
Từ vào thu đến nay
Gió thu hiu hắt
Sương thu lạnh
Giăng thu bạch
Khói thu xây thành
Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh một mùa thu thanh sạch lạnh lùng. Gió thu hiu hắt thổi, lòng thêm một chút lẻ vắng cô đơn. Sương thu buông lạnh. Trăng thu màu bạc thật trong, xa xôi quạnh quẽ, và “khói thu xây thành”. Không gian bảng lảng trong sương khói, lớp khói dày càng làm khí thu thêm lạnh, cũng thêm sạch, thêm trong. Bốn nét phác thảo 4 cảnh thiên nhiên, họa nhau thành một bức tranh thu, một ấn tượng thu vừa đơn giản mà vừa in sâu trong lòng người đọc.
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly
Nhạn về én lại bay đi
Đêm thì vượn hót, ngày thì ve ngâm
Lá sen tàn tạ trong đầm
Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa
Sắc đâu nhuộm ố quan hà
Cỏ vàng, cây đỏ, bóng tà tà dương
Nào người cố lý tha hương
Cảm thu, ai có tư lường hỡi ai?
Nếu khổ đầu chỉ là phác thảo thu, thì đây, người thơ vẽ lên mùa thu rõ từng chi tiết. Mùa thu ấy đượm buồn, người vẽ cảnh nào cũng là cảnh tàn tạ chia biệt: lá rụng đầu ghềnh, một dòng chảy lạnh lẽo, vùi cuốn chiếc lá rụng ra xa khỏi cội nguồn, lá sen tàn tạ trong đầm/nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa. Lá mới đây còn xanh, nay đã phải dập vùi nơi sóng nước, hoa mới còn tươi, nhưng nay đã vào mùa tàn lụi, những gì tươi đẹp rực rỡ mới đây giờ đều vào mùa lịm tắt. Như một quy luật, sau mùa hạ khi cỏ cây vạn vật sinh trưởng đến đỉnh điểm, mùa thu là mùa của sự lụi tàn, hoa phai sắc, cây rụng lá, quả chín rụng xuống, và chờ đợi mùa đông. Một nỗi buồn nhẹ giăng giăng khắp mùa thu, cái mùa thu đơn sắc thanh sạch trong khổ trước đến nay bỗng ngả sang một sắc vàng đỏ tàn úa: đó là màu cỏ vàng, màu lá cây đỏ, màu mặt trời khuất lặn. Nỗi buồn từ cỏ cây đã trở thành nỗi buồn của con người khi đứng trước quan hà mà nhớ về quê cũ. Những người “cố lý tha hương” là những người đã đành lòng rời bỏ bản quán thân thuộc, đã sẵn sàng cho cuộc hành trình về miền xa xôi, đối diện với thu, với cảnh tàn lụi, họ suy tính gì, họ cảm những gì?
Nào những ai
Bảy thước thân nam tử
Bốn bể chí tang bồng
Đường mây chưa bổng cánh hồng
Tiêu ma tuế nguyệt, ngại ngùng tu my
Đây người anh hùng ôm chí lớn, những muốn chọc trời khuấy nước, tung hoành thiên hạ cho phỉ chí, thế nhưng lại chỉ chuốc thất bại, chẳng thỏa được ý nguyện, đành phải phí hoài năm tháng, thẹn với thân nam tử của mình.
Nào những ai
Sinh trưởng nơi khuê các
Khuya sớm phận nữ nhi
Song the ngày tháng thoi đi
Vương tơ ngắm nhện nhỡ thì thương hoa
Đây người khuê nữ duyên phận éo le, tình duyên lỡ làng, nhìn thời gian thấm thoắt mà thầm tiếc mình đã uổng mất tuổi thanh xuân.
Nào những ai
Tha phương khách thổ
Hải giác thiên nha
Ruột tầm héo, tóc sương pha
Gốc phần chạnh tưởng quê nhà đòi cơn
Đây những người ôm nặng nỗi buồn lữ thứ, đã lang bạt góc bể chân trời, lòng đã phai bạc. tuổi đã về già mà không về quê cũ, không về được nguồn cội, chỉ còn biết thầm nhớ thương trong lòng.
Nào những ai
Cù lao báo đức
Sinh dưỡng đền ơn
Kinh sương nghĩ nỗi mền đơn
Giầu sang bất nghĩa mà hơn nghèo hèn!
Đây những người khổ công lao động, nhân đức hiền lành nhưng nghèo đói, sương mỏng chỉ có mền đơn che thân, chợt thấy đời vô nghĩa bất công, cay đắng nhường nào.
Nào những ai
Tóc xanh mây cuốn
Má đỏ huê ghen
Làng chơi duyên đã hết duyên
Khúc sông giăng rãi con thuyền chơi vơi
Đây những nàng từng đẹp xinh nức tiếng thời son trẻ, nhưng nay hết thời xuân sắc vui chơi, khách phong lưu tản mát, nay chỉ còn riêng lại một mình bơ vơ.
Nào những ai
Dọc ngang giời rộng
Vùng vẫy bể khơi
Đội giời đạp đất ở đời
Sa cơ thất thế quê người chiếc thân
Đây nỗi lòng khách anh hùng từng tung hoành ngang dọc nay gặp cảnh bại vong lưu lạc.
Nào những ai
Kê vàng tỉnh mộng
Tóc bạc thương thân
Vèo trông lá rụng đầy sân
Công danh phù thế có ngần ấy thôi
Đây những người chợt ngộ ra công danh cũng chỉ là một giấc mộng phù phiếm của đời người, chỉ nhẹ như cái lá rụng bên sân.
Thôi nghĩ cho
Thu tự giời
Cảm tự người
Người đời ai cảm ta không biết
Ta cảm thay ai, viết mấy lời
Thôi thời
Cùng thu tạm biệt
Thu hãy tạm lui
Chi để khách đa tình đa cảm
Một mình thay cảm những ai ai!
Nhìn lại trường đoạn này thấy tác giả đã rung cảm bởi nhiều nỗi buồn số kiếp thân phận: từ người anh hùng mạt vận, tiểu thư khuê các lương duyên trắc trở, người tha phương không đường quay về, đến cả khách má hồng phong lưu luống tuổi hết duyên. Đó đều là những nỗi buồn gặp phải khi tuổi đã vào thu, người ta ở bên kia đỉnh dốc, không thỏa nguyện mộng ước ban đầu, nên tiếc nhớ xót xa. Mùa thu gắn liền với thu hoạch, cũng là lúc người ta đếm đong được mất, nhìn tiếc quá khứ. Bài thơ nhân mùa thu thiên nhiên trước mắt mà cảm mùa thu của nhân sinh đời người. Không rõ những nỗi lòng đây là tác giả nhìn được từ người khác, hay người nhìn thấy nó trong chính bản thân mình, thấy trong mình bỗng như nổi lên muôn ngàn thân phận, muôn ngàn nỗi lòng buồn tiếc. Người còn muốn thu hãy tạm lui, để người thôi tiếc nuối, thôi tính toán được mất thiệt hơn. Rồi người muốn tiễn thu đi, như muốn những xáo động tinh thần ấy khép lại trong một cái nhìn: tất cả đều như mộng, rồi cũng rời ta rụng xuống như lá ngoài sân.
Vèo trông lá rụng đầy sân
Công danh phù thế có ngần ấy thôi
Minh Hùng