Từ khi có chương trình dạy văn học Việt Nam trong nhà trường phổ thong từ đầu thế kỉ XX đến nay, Truyện Kiều luôn luôn là một trọng điểm của chương trình. Từ Thi văn trích diễm (1925) đến Việt Nam thi văn hợp tuyển (1941) của Dương Quảng Hàm, chương trình văn học của Hoàng Xuân Hãn dùng trong thời kì kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954), chương trình văn học ở miền Bắc, chương trình văn học ở trung học miền Nam (VNCH), chương trình ngữ văn hiện hành từ 2003 đến nay Truyện Kiều dều là trọng điểm giảng dạy cho học sinh trong chương trình từ THCS đến THPT.
Xem thêm: Văn hoá ứng xử người Việt thể hiện qua tình yêu Kim – Kiều
Tùy theo quan niệm dạy học mà Truyện Kiều được trích nhiều hay ít, chọn những đoạn nào. Dương Quảng Hàm chọn 9 đoạn, bắt đầu từ Đạm Tiên ứng mộng cho Kiều (câu 171 – 222), Tú Bà dỗ Kiều (1001 – 1032), Kiều gặp Thúc Sinh (1329 – 1366), Từ Hải sai quân đón Kiều (2249 – 2288), Kiều khuyên Từ Hải hàng (2451 – 25 02), Kiều gảy đàn (gồm đàn cho Kim Trọng, đàn cho Hồ Tôn Hiến, đàn khi tái hợp); Kiều nhớ nhà (gồm ở lầu Ngưng Bích, khi ở thanh lâu, khi lấy Thúc Sinh, khi lấy Từ Hải)[1], các đoạn trích minh họa cho tư tưởng định mệnh và tấm lòng cô trung , hoài Lê của tác giả Nguyễn Du, đồng thời cũng tiêu biểu cho nghệ thuật tả tình, tả cảnh, tả tiếng đàn trong truyện. Từ trong kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ chúng ta quan tâm quyền sống con người và nội dung tố cáo hiện thực, chủ nghĩa nhân đạo, các đoạn trích cơ bản gần giống với bây giờ. Đó là chị em Thúy Kiều, Kiều gặp Kim Trọng, Mã Giám Sinh mua Kiều, Trao duyên, Kiều ở lầu Ngưng Bích, Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều, Hoạn Thư đánh ghen Thúy Kiều, Kiều gặp Từ Hải, Kiều báo ân báo oán.
Ở miền Nam, theo sách của giáo sư Hà Như Chi Truyện Kiều học tám đoạn sau: Kiều trước mộ Đạm Tiên, (51 – 132), Kiều và Kim Trọng thề ước với nhau (420 – 454), Kiều bán mình (621 – 652), Tâm trạng Kiều khi ở thanh lâu (1227 – 1271), Kiều khuyên Thúc Sinh về thăm nhà (1437 – 1526), Kiều gặp lại Thúc Sinh trước mặt Hoạn Thư (1801 – 1872), Kiều gặp Từ Hải (2165 – 2204), Kiều khuyên Từ Hải ra hàng (2461 – 2502)[2]. Về tư tưởng Truyện Kiều qua các đoạn trích Hà Như Chi nhấn mạnh đến tư tưởng định mệnh và tài mệnh tương đố. Sách của Phạm Văn Diêu chọn các đoạn thể hiện tình cảm nhân vật như Kim Trọng Thuý Kiều gặp nhau, Kiều đánh đàn cho Kim Trọng nghe, Thúc Sinh từ biệt Kiều, Kiều nhơ nhà sau khi Từ Hải ra đi[3]. Phạm Văn Diêu chú trọng giá trị miêu tả tâm lí trong Truyện Kiều. Sách giáo khoa miền Bắc và SGK sau ngày thống nhất chú trọng tới các giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo, giá trị nghệ thuật miêu tả tâm lí, khẳng định quyền sống con người, tố cáo hiện thực đen tối, phê phán thế lực của đồng tiền.
Chương trình ngữ văn cải cách lần thứ tư sau khi đất nước thống nhất từ năm 2000, phần THCS lớp 9 học năm bài, gồm : Chị em Thúy Kiều, Cảnh ngày xuân, Kiều ở lầu Ngưng Bích, Mã giám sinh mua Kiều, Thúy Kiều báo ân báo oán[4]. Phần ngữ văn lớp 10 học ba bài: Trao duyên, Nỗi thương mình, Chí khí anh hùng, đọc thêm Thề nguyền. Phần trích THCS nhấn mạnh đến nội dung xã hội, tài nghệ tả cảnh. Phần THPT nhấn mạnh nghệ thuật miêu tả tâm lí và tư tưởng thương thân xót mình rất nổi bật của Truyện Kiều[5]. Nội dung học ở THPT rõ ràng cao hơn, sâu hơn.
Ngoài phần bình giảng văn, Truyện Kiều cũng là tác phẩm được dùng để ra đề làm văn với các vấn đề triết học, luận lí, văn học. Trong chương trình trung học thời trước người ta thường ra đề văn về Truyện Kiều, riêng trong chương trình văn học miền Bắc và sau ngày thống nhất Truyện Kiều không thấy dùng làm đề văn nữa.
Xem thêm: Tư tưởng khoan dung và lạc quan của Nguyễn Du trong Truyện Kiều
Dạy học Truyện Kiều là làm cho thế hệ trẻ của đất nước hiểu và yêu quý, trân trọng giá trị tư tưởng và nghệ thuật vô song của tác phẩm để thêm tự hào về truyền thống nghệ thuật của dân tộc. Dạy học Truyện Kiều là truyền cho thế hệ trẻ một tư tưởng nhân dậo sâu sắc, cho các em thưởng thức những áng văn hay và đẹp tuyệt vời bằng tiếng Việt và thể thơ Việt dể các em thêm yêu quý tiếng Việt giàu đẹp, tinh tế, để cho nhạc điệu réo rắt của những câu Kiều vang mãi trong tâm hôn thơ trẻ của các em và theo các em đến suốt đời.
Dạy học Truyện Kiều hiện nay là một việc rất hay nhưng rất khó. Khó thứ nhất là văn bản đoạn trích. Với những phát hiện các bản Kiều Nôm cổ, việc hiệu đính các văn bản, đòi hỏi phải tham khảo các bản Kiều mới, như bản Nguyễn Khắc Bảo, bản của Hội Kiều học. Cũng có ý kiến cho rằng, câu chuyện văn bản học còn giải quyết dài dài, để cho ổn định, tạm thời ở các trường phổ thông chỉ nên lấy bản Đào Duy Anh làm căn cứ. Cái khó thứ hai là bắt nguồn từ bản thân nhân vật trong truyện. Đời Kiều là đời một kĩ nữ, nhiều mối tình, đem dạy cho học sinh liệu các em đã đủ khôn lớn để thấu hiểu nhân vật được chưa? Khó thứ ba là ngôn ngữ cổ, nhiều điển cố, nhiều điều chưa có được sự giải thích nhất trí. Ví dụ như nét ngài, mày ngài. Cái khó thứ tư là cuộc sống, phong tục trong truyện cách xa cuộc sống hiện tại, đối với học sinh có nhiều phần xa lạ. Tuy nhiên dạy học Truyện Kiều cũng có thuận lợi lớn. Thứ nhất đây là tác phẩm vĩ dại nhất trong văn học Việt Nam, là niềm tự hào của dân tộc, cho nên nhiều thầy cô giáo yêu thích Truyện Kiều, thích dạy và do đó có thể dạy hay. Văn Kiều rất hay, rất đẹp, lại thâm thuý, nếu đã đọc vào rồi thì sẽ yêu thích. Học sinh chắc chắn cũng sẽ yêu thích tác phẩm. Sách vở nghiên cứu Truyện Kiều rất nhiều, tài liệu tham khảo đủ loại không thiếu.Dạy học Truyện Kiều đòi hỏi phải đối chiếu Đoạn trường tân thanh với Kim Vân Kiều Truyện, thì bản dịch Kim Vân Kiều truyện đều có sẵn.
Từ vị trí nổi bật đó, thiết nghĩ Truyện Kiều đóng vai trò rất quan trọng trong dạy học các giá trị văn chương cổ điển Việt Nam, dạy học về tư tưởng nhân đạo, nhân cách làm người, thái độ đối với bất công, bạo ngược, đào tạo năng lực cảm thụ văn học đối với học sinh. Về giá trị văn chương cổ điển Truyện Kiều là tác phẩm tiêu biểu bậc nhất. Dạy học Truyên Kiều đồng thời cũng là trọng điểm để đào tạo năng lực cảm thụ thẩm mĩ. Có thể hiểu năng lực là cái tiềm lực để con người hoàn thành một công việc nào đó. Nền tảng của năng lực văn học là năng lực ngôn ngữ. Năng lực văn học còn bao hàm khả năng sử dụng những quy tắc về hình tượng và thể loại và các kí hiệu, biểu tượng văn hóa trong giao tiếp. Đằng sau năng lực văn học là năng lực người, năng lực hiểu người và đồng cảm với con người, năng lực cảm nhận thẩm mĩ. Hiểu như vậy ta thấy việc dạy học các trích đoạn Truyện Kiều thường chưa quán triệt được đầy đủ mục tiêu đào tạo năng lực.
Thực vậy, văn bản Truyện Kiều thuộc loại văn học cổ, có nhiều từ cổ, điển cố, từ Hán Việt một mặt, tạo nên những trở ngại cho việc đọc hiểu. Nhưng mặt khác Truyện Kiều là đỉnh cao nghệ thuât tự sự, trữ tình Việt Nam, là kiệt tác về ngôn ngữ nghệ thuật của dân tộc. Truyện Kiều là tác phẩm hiểu đời, chứ không phải tác phẩm răn đời như Truyện Hoa Tiên (nhận xét của Cao Bá Quát), do vậy nó có tác dụng lớn trong việc đào tạo năng lực người cho học sinh. Giáo viên cũng như SGK thường phải mất nhiều thời gian, nhiều trang giấy để khai thông các trở ngại đó, dẫn đến không còn nhiều thì giờ để khám phá, phát hiện các giá trị nghệ thuật và tư tưởng của tác phẩm ở trên lớp. Điều này một phần còn do sư phân phối thời gian thường quá eo hẹp, một tiết đối với đoạn ngắn và hai tiết cho đoạn dài, thiếu thời gian cho học sinh hoạt động tìm hiểu. Vấn đề sắp xếp thời lượng để dạy học Truyện Kiều trong nhà trường cần đượ cân nhắc. Nếu thời lượng ít, thì học ít đoạn trích, nếu muốn hoc nhiều thì cần tăng thêm thời lượng. Truyện Kiều cần dạy ở cả hai cấp, THCS và THPT như chương trình hiện hành là đúng đắn và cần thiết. Học những áng văn như Truyện Kiều nên tổ chức cho HS học chậm, tránh lối “cưỡi ngựa xem hoa”. Việc học trích đoạn có cái thích hợp của nó, nhưng cũng có cái bất cập của nó. Học sinh không hề nắm được cái toàn thể. Mặc dù đã có phần tóm tắt giúp HS hiểu câu chuyện, nhưng mỗi đoạn trích chỉ chú ý một một nội dụng nghệ thuật, cách dạy thướng đi vào thưởng thức cách dung từ đắt (ví như chữ “cậy”, chữ “tót”) hoặc nghệ thuật tả tình, miêu tả tâm lí…, mà thiếu đi sự suy nghĩ về các vấn đề nhân sinh quan như lòng hiếu, chữ trinh, tư tưởng định mệnh… Đúng đó là những ý niệm cổ xưa, có phần cũ kĩ, nhưng bên trong phải chăng vẫn có những tinh thần đạo lí lâu đời của người Việt. Theo tôi biết chương trình ngữ văn THPT Trung Quốc mới ban hành tháng 10 năm 2017, ở THPT có bài học đọc tác phẩm văn học hoàn chỉnh. Bài học được bố trí cho HS đọc nhiều tháng ở nhà và sẽ ổ chức cho HS thảo luận, báo cáo thu hoạch trên lớp. Chương trình mới của ta hiện chưa có mịc này. Nêu lên để tham khảo, mong sau này được chú ý.
Quả đúng là Truyện Kiều có nhiều điều khó hiểu đối với học sinh. Nhưng theo tôi, dạy học Truyện Kiều có thể giúp học sinh làm quen với nghệ thuật cổ điển, học cách hiểu điển cố, từ cổ, các phép tu từ của văn chương cổ, như điển cố, đối ngẫu, ẩn dụ, sóng đôi. Theo SGK GV thường chỉ mới giải thích nghĩa của từ ngữ, mà ít cho HS thấy đó chính là cách nhìn đời thú vị của người xưa trong văn chương. Một hiện tượng khá phổ biến là khi dạy các đoạn trích Kiều giáo viên thường ít quan tâm đúng mức về phần tiếng Việt của đoạn trích, mà tập trung vào giải thích các từ, ngữ có nguồn gốc Hán. Ví dụ đoạn trích Chị em Thúy Kiều, giải thích từ tố nga, mà ít quan tâm từ ả, giải thích mai cốt cách, tuyết tinh thần mà không chú ý mười phân vẹn mười; giảng trang trọng mà không giảng khác vời; giảng mây thua, tuyết nhường mà không giảng nước tóc, màu da; cũng thế các từ pha nghề, đủ mùi, làu, nghề riêng, ăn đứt, khúc nhà, rất mực, xuân xanh, tường đông, ong bướm, mặc ai. Các từ ấy chẳng những thuần Việt, mà còn là yếu tố cơ bản tạo nên giọng điệu của trần thuật. Các yếu tố Hán hầu như khả năng tạo ra giọng điệu rất hạn chế trên các trang Kiều. Nhiều học sinh không hiểu thế nào là khác vời, nước tóc, khúc nhà là thế nào.
Dạy học đoạn trích Chị em Thuý Kiều, nhiều thầy cô chỉ thấy giản đơn là sắc đẹp của hại chị em, mà không thấy là chân dung tướng số của hai người, không thấy khi miêu tả tài Kiều, tác giả có ý làm ra vẻ đắc ý cậy tài. Nếu xâu chuỗi các từ nghiêng nước, nghiêng thành, sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai, làu bậc ngũ âm, nghề riêng ăn đứt…thì có thể thấy nhà thơ không chỉ miêu tả sắc đẹp tài năng nhân vật, mà thực ra là đang tung hô, phô trương quá mức sắc tài của Kiều, một điều mà ở cuối tác phẩm, chính nhà thơ đã đay nghiến : Có tài mà cậy chi tài, chữ tài liền với chữ tai một vần. Thì ra nhà thơ tả tài trong trạng thái cậy tài của nhân vật, dù có ý thức hay không. Có tài mà cậy tài, ngoại lộ là điều rất dễ chuốc lấy tai họa. Cái sắc tài của Kiều ở đoạn này có cái thế lấn lướt người, áp chế người, dễ chuốc lấy sự ghen ghét. Vì vậy mà dạy đoạn trích này như là miêu tả, ca ngợi tài sắc hai chị em một cách khách quan, không liên hệ đến tư tưởng tài mệnh tương đố thì không hiểu hết được.
Việc giải thích các từ ngữ thơ trong các đoạn trích rất khó. đoạn trich cũng nhiều khi chưa chính xác. Đó là vì việc chú thích trong các bản Kiều có uy tín có chỗ cũng cần được bàn bạc thêm. Ví dụ khuôn trăng trong nhiều sách giảng là mặt tròn như mặt trăng tròn (“diện như mãn nguyệt”), là không đúng, bởi khuôn trăng chỉ là mĩ từ chỉ khuôn mặt, cũng như các mĩ từ khác như nét hoa, tường gấm, thềm hoa, lệ hoa, giọt ngọc, giọt Tương…, không nên hiểu giọt Tương là giọt nước sông Tương, hay tường gấm là tường bằng gấm, vậy cũng không nên hiểu khuôn trăng là mặt tròn như mặt trăng, mà chỉ hiểu là khuôn mặt đầy đặn mà thôi. Mặt tròn thì chẳng đẹp tí nào. Bà Triệu Ngọc Lan, GS Đại học Bắc Kinh, khi dịch câu này ra tiếng Trung Quốc rất ngạc nhiên về khiếu thẩm mĩ của tác giả, phải chú thích xuống dưới trang rằng “nguyên văn như thế vậy”. Thực ra đó là do bà ấy đọc sai, bị phụ thuộc vào các bản chú thích, mà không phải mọi chú thích đều thật sự đáng tin. Trường hợp này đã làm cho người ta hiểu lầm oan cho Nguyễn Du. Chữ “tường đông” trong Truyện Kiều theo tôi, nên hiểu theo vũ trụ quan người xưa, xem phương đông là phương dương tính, động , là phương của nam tính. Ong bướm phía đông ám chỉ phía con trai ve vãn. Cũng như hiên tây, tây thiên là chỉ phía âm tính, tĩnh, nữ giới. Điều này tôi đã giảng cho học viên trong chuyên đề thi pháp học từ năm 1981 tại ĐHSP Hà Nội.
Dạy học nghệ thuật Truyện Kiều ta không chỉ quan tâm đến các thủ pháp tả cảnh ngụ tình, tả tình, tả cảnh, viết đối thoại, độc thoại, mà ngày nay cần hiểu nghệ thuật tự sự của truyện theo nhãn quan mới của Tự sự học. Cần quan tâm đến giọng điệu, người kể kể theo điểm nhìn của nhân vật, lời nửa trực tiếp, độc thoại nội tâm…, là những điều mà với nhãn quan nghệ thuật truyền thống người ta chưa thấy hết sức sáng tạo của Nguyễn Du. Điều này xin đọc Thi pháp Truyện Kiều của tôi (2002, 2018)
Các đoạn trích trong SGK THPT chúng tôi đã có ý thức trích ngắn, ngắn hơn bất cứ đoạn trích nào cùng loại trong các SGK trước, nhằm giảm bớt áp lực đối với HS và tạo điều kiện để GV dạy học đọc hiểu tốt hơn. Tiếng Việt trong các doạn Trao duyên và Nỗi thương mình thật là tuyệt vời về mặt miêu tả tâm lí và cách sáng tạo tiếng Việt. Các từ cậy, chịu, chắp mối tơ thừa mặc em, các từ lặp “khi”, các tiểu đối, lời độc thoại nội tâm, điểm nhìn nhân vật là những hạt ngọc trong cách sử dụng từ tiếng Việt và nghệ thuật tự sự của Nguyễn Du. Đặc biệt đoạn trích Nỗi thương mình, chỉ 20 dòng mà có đến 17 dòng có tiểu đối, ba dòng có điệp từ, bảy cấu trúc đan xen là một đoan ngôn từ thơ cô đúc. Các cấu trúc đan xen như như bướm lả ong lơi, lá gió cành chim, phong gấm rũ là, dày gió dạn sương, bướm chán ong chường, mưa sở mây tần, gió tựa hoa kề, là lối dùng từ thơ rất sang tạo, không có trong từ điển, mà cho đến nay vẫn chỉ có Nguyễn Du sở trường, tạo sức biểu cảm rất cao. Nói ong bướm lả lơi chỉ trạng thái xảy ra một lần, nhưng nói bướm lả ong lơi thì trạng thái kéo dài triền miên, không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua trong đó. Các tiểu đối cũng có tác dụng chỉ trạng thái triền miên, các điệp từ “khi”, “đòi phen”, “khi sao”, “giờ sao” cũng đều có tác dụng như thế. Các câu đối lập có tác dụng thể hiện thái độ Kiều không đồng lõa với cuộc sống ô trọc.
Năng lực văn cũng như năng lực ngôn ngữ, thể hiện trong năng lực hiểu và năng lực viết, năng lực biểu đạt, vì thế khi dạy nhất thiết phải huy động tiềm lực của HS tham gia bài học. Không ngại đặt những câu hỏi nhỏ về các từ ngữ, dù bề ngoài có vẻ dễ hiểu trong từng câu, sau đó mới nêu câu hỏi về liên kết các câu, đoạn. Cần lưu ý đến những từ ngôn ngữ thơ, chỉ sử dụng trong ngôn ngữ thơ, ví như tố nga, mai cốt cách, tuyết tinh thần, khuôn trăng, nét ngài…Các từ ấy không dùng trong khẩu ngữ, trong văn xuôi. Cần chú ý các thủ pháp biểu hiện của văn học. Chính các thủ pháp ấy thể hiện ý nghĩa tư tưởng. Khi các phương thức biểu đạt ấy nhập tâm vào ý thức, vào trí nhớ mà HS có thể áp dụng để hiểu các đoan văn khác thì có thể nói HS đã hình thành được năng lực. Do vậy, nếu ở THCS ma HS đã biết được các thủ pháp biểu đạt từ bài học đoạn trích đầu tiên, thì sang đoạn trích thứ hai HS đã có thể vận dụng để học đoạn trích thứ hai một cách nhẹ nhàng. Sang đoạn thứ ba thì nên để cho HS tự diễn giải, rồi GV giúp sức, đến đoạn thứ tư thì HS có thể tự làm trong một bài tập. Qua các đoạn trích ở THCS có thể nói HS đã có một cái vốn về Truyện Kiều, sang THPT GV sẽ vận dụng và phát huy cái vốn ấy để đi sâu thêm về nội dung và nghệ thuật. Mà Truyện Kiều học sau Chinh phụ ngâm, sau Cung oán ngâm, rõ ràng phải sử dụng các năng lực đã tích lũy trong các bài trước để hiểu Truyện Kiều. Ở đây việc học thuộc lòng các đoạn trích Kiều, tổ chức các cuộc thi thuộc lòng được nhiều câu Kiều sẽ rất thú vị và có nhiềuý nghĩa. Đáng tiếc là chúng ta đã coi nhẹ khâu học tập rất vui này.
Hình thành năng lực văn học là một quá trình. GV cần đọc kĩ toàn bộ chương trình, phân bố những kĩ năng mà HS cần học trong từng bài đọc văn, mỗi bài tập trung vào một hai kĩ năng thôi, như vậy tích lũy cả quá trình, lo gì HS không hình thành được năng lực đọc hiểu. Cho dù có rơi rụng thì với quá trình lặp đi lặp lại, với yêu cầu học thuộc lòng, chắc chắn việc đào tạo năng lực văn học sẽ có kết quả.
Quan niệm tích hợp cho thấy đọc văn, hiểu văn và viết văn không tách rời. Khi hiểu văn là khi có khả năng gọi tên cái nội dung mình hiểu ra, gọi tên nghĩa cuả từ ngữ, gọi tên tính chất của tình huống, của thái độ nhân vật, như thế tức đã là tìm cách biểu đạt. Từ biểu đạt cách hiểu chi tiết đến tìm cách biểu đạt ý nghĩa của đoạn.
HS đạt được kết quả hai trong một: vừa hiểu được, vừa nói được, viết được. Đó là biện chứng của quá trình vận dụng Truyện Kiều trong việc đào tạo năng lực văn học và ngôn ngữ cho HS. Để phát huy năng lực viết trên cơ sở đọc hiểu. cần kết hợp với dạy làm văn. Trong các sách dạy làm văn thời trước, các giáo viên trung học thường ra các đề bài làm văn về Truyện Kiều cho học sinh tập viết. Ví dụ trong tấp sách Việt Luận của Nghiêm Toản (1950) thấy có các đề văn như sau: 1. Anh chị hãy bình luận về tâm lí và hành động của nhân vật Hoạn Thư trong Đoạn trường tân thanh. 2. Anh hãy xét nhân vật Từ Hải trong lịch sử, trong tiểu thuyết và trong Đoạn trường tân thanh. 3. Anh hãy phân tích đoạn Kiều đi thanh minh viếng mộ Đạm Tiên, và khi trở về mộng thấy người bạn cùng hội đoạn trường. Anh hãy chứng minh đoạn trên quan hệ đến toàn thể cuốn Đoạn trường tân thanh, chư không phải là một bộ phận ở ngoài chủ đề như nhiều ngườ lầm tưởng[6]. Trong sách của nhà giáo Thẩm Thệ Hà còn dẫn ra đề thi tú tài năm 1959 với nội dung sau: Trong bài Tổng vịnh Thuý Kiều nhà thơ Chu Mạnh Trinh có viết: “Hai bên vẹn cả tình cùng hiếu, Đem bắc đồng cân đáng mấy vàng”. Hãy nhận xét giá trị của lời phê bình trên.[7]Chúng tôi thấy các đề văn bình luận về nhân vật, sự kiện trong Truyện Kiều rất cần thiết, song các đề văn như trên là quá rộng và quá lớn, học sinh trung học ít có điều kiện làm được, vì thử hỏi, học sinh làm sao biết được Từ Hải trong lịch sử , trong tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện để mà so sánh? Đó phải là đề tài của sinh viên đại học. Hay là trình độ của học sinh ngày trước cao hơn, sâu hơn trình độ của học sinh THPT bây giờ? Muốn làm đề văn ấy học sinh phải đọc cả tác phẩm Truyện Kiều, hiểu toàn truyện, chứ không phải chỉ là một số đoạn trích. Theo chương trình hiện hành của chúng ta, tôi nghĩ ta có thể nêu các đề văn nhỏ, vừa sức như sau: 1. Phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán để thấy thái độ của Nguyễn Du đối với cái thiện và cái ác, đối với công lí. 2. Phân tích đoạn trích Trao duyên để cho thấy khả năng thấu hiểu sâu sắc của Nguyễn Du đối với con người. 3. Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình để thấy tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du. Đề văn có thể đa dạng hơn chút nữa, cao hơn một chút. Sự song hành của đọc văn và làm văn sẽ nhân lên kết quả đọc hiểu đối với học sinh. Đáng tiếc là đã lâu trong chương trình học ngữ văn của ta thiếu đi sự phối hợp làm văn với đọc văn trong phần văn học cổ điển, mà chỉ tập trung văn học hiện đại. Đó là một điều mà chương trình mới, SGK mới cần khắc phục. Chính cách bố trí chương trình như vậy đã giảm sút sức hấp dẫn của văn học cổ điển đối với học sinh. Chúng tôi luôn nghĩ rằng, văn học cổ điển có trọng lượng về tư tưởng và nghệ thuật. Văn học hiện đại tất nhiên là quan trọng, nhưng về sự thử thách, đào thải qua thời gian, thì văn học hiện đại chưa kinh qua khảo nghiệm khắc nghiệt như văn học cổ điển. Vì thế việc đề cao văn học cổ điển, đặc biệt là kiệt tác như Truyện Kiều, có ý nghiã rất to lớn. Đây đề cập tới vấn đề chương trình sắp tới của trường trung học.
Xem thêm: Chữ Tâm trong Truyện Kiều
Tóm lại, trong điều kiện hiện nay, muốn làm được các điều trên, thiết nghĩ, GV cần nghiên cứu kĩ các đoạn trích Truyện Kiều cũng như toàn tác phẩm, đạt đến sự hiểu sâu sắc, nhuân nhuyễn; đổi mới phương pháp dạy học, lấy HS làm trung tâm, tạo mọi cơ hội cho HS được nói, bày tỏ suy nghĩ, nêu thắc mắc, nói chung là làm cho HS hoạt động thì mới có thể hình thành năng lực văn học được. Nếu cứ giảng bình như lâu nay, chỉ thầy cô giảng thao thao, học sinh cắm cúi chép, thì Truyện Kiều hay mấy, HS cũng không hình thành năng lực cảm thụ văn học được.
Rất hiếm có tác phẩm văn học là một chất liệu có giá trị như Truyện Kiều. Các đoạn trích bao hàm nhiều hiện tương ngôn ngữ và thủ pháp văn học độc đáo, tập trung. Nếu không nắm lấy mà dạy học, thiết nghĩ chúng ta sẽ phụ mất tấm lòng và tài nghệ của bậc thầy Nguyễn Du, nhà văn có một không hai của dân tộc.
Trần Đình Sử
Hà Nội, 5 tháng 7 năm 2018
[1] Dương Quảng Hàm, Việt Nam thi văn hợp tuyển, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Hà Nội, 1950.
[2] Hà Như Chi, Việt Nam thi văn giảng luận, Tân Việt xuất bản, Huế, 1951.
[3] Phạm Văn Diêu, Việt Nam văn học giảng bình, Tân Việt, Sài gòn, 1961.
[4] Nguyễn Khắc Phi tổng chủ biên, Ngữ văn lớp 9 tập 1, nxb Giáo dục, Hà Nội, 2006.
[5] Trần Đình Sử tổng chủ biên, Ngữ văn 10 nâng cao tập 1, nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007.
[6] Nghiêm Toản. Luận văn thị phạm (Việt luận), Nxb Thế giới, Hà Nội, 1950, tr. 171, 183, 191.
[7] Thẩm Thệ Hà, Phương pháp làm văn nghị luận, Sống mới xuất bản, Sài Gòn, 1960, tr. 78.